Thứ Năm, 5 tháng 6, 2014

CHỨC NĂNG SINH LÝ PHỦ TAM TIÊU

CHỨC NĂNG SINH LÝ PHỦ TAM TIÊU

1. Đại cương:
- Chữ Tiêu có nghĩa là cháy khét, nhưng nó lại đứng trước chữ Tam, nên ý nghĩa là đứng đầu, là to lớn như chữ Nguyên. Cho nên nói Tam tiêu phân ra Thượng tiêu, Trung tiêu và hạ tiêu. Mỗi tiêu có một đường khí đạo cũng giống như Tam Nguyên là Thiên, Địa, Nhân, mỗi ngôi có 1 nguyên khí.
- Chữ Tiêu ngày xưa có ý nghĩa là màng mỡ. Tam Tiêu chính là màng mỡ khắp trên cơ thể con người, là con đường hành thủy (Thương hàn luận).
- Nội kinh viết: “Tam tiêu là quan năng khai ngòi nước, thủy đạo xuất ra từ đây”. Như vậy, Tam tiêu chủ về khí đạo, ví như 1 vị quan trông coi điều khiển việc khơi xẻ đường thủy đạo cho lưu thông (Quyết độc chi quan) vì không có khí thì thủy không hóa, và Tam tiêu cũng là con đường vận hành nước trong cơ thể con người. Chương 31, sách Nạn kinh viết: “Tam tiêu là đường lối của thức ăn, là chỗ khí luân chuyển đi về” đã nói lên chức năng của Tam tiêu là đưa khí huyết tân dịch của thức ăn đi chu lưu khắp da dẻ và tạng phủ. Thiên Ngũ lung tân dịch biệt luận, sách Linh khu viết: “Đồ ăn có 5 vị vào miệng đều dồn vào bể chứa của nó, tân dịch được tạo ra và theo đường lối riêng, Tam tiêu đưa khí ra làm ấm áp bắp thịt, tân dịch ra nuôi dưỡng bì phu…”. Thiên bản thần, sách Linh khu lại nói: “Tam tiêu là phủ trung độc (chỗ hội tụ của đường nước) đường nước do đó mà ra, thuộc với Bàng quang”.
Vậy tóm lại, Tam tiêu là đường nguyên khí phân bổ thức ăn, uống chuyển hóa ra vào, chủ khí, chủ thủy coi toàn bộ hoạt động khí hóa trong cơ thể con người. Tam tiêu có 2 công năng chính:
- Chủ trì các khí, lưu thông khí huyết tân dịch.
- Thông điều đường nước.
2. Phân biệt bộ vị của Tam tiêu và công năng của mỗi bộ vị.
Thiên Dinh vệ sinh hội, sách Linh khu phân cơ thể ra:
- Thượng tiêu: từ miệng trên của Vị (bí môn) đến dưới lưỡi; bao gồm cả bộ phận lồng ngực và 2 tạng Tâm Phế.
- Trung tiêu: từ miệng trên của Vị (bí môn) đến miệng dưới của Vị (u môn) bao gồm cả bộ phận bụng trên và Tỳ Vị đều thuộc phạm vi của Trung tiêu.
- Hạ tiêu: từ miệng dưới của Vị xuống đến tiền âm, hậu âm; bao gồm cả bộ phận bụng dưới, Can, Thận, Đại tiểu trường, Bàng quang đều thuộc phạm vi của hạ tiêu.
Điều 31, sách Nạn kinh viết: “Thượng tiêu từ dưới lưỡi xuống đến cách mô ngang chỗ miệng trên của Vị, chủ nạp mà không chủ xuất, Trung Tiêu là ngang giữa trung quản của Vị, không cao không thấp, chủ việc ngấu nhừ thức ăn. Hạ tiêu ngang với miệng trên của bàng quang, chủ xuất mà không chủ nạp để truyền tống cặn bã”.
* Thượng tiêu:
Thiên Dinh vệ, sách Linh khu viết: “Thượng tiêu như sương mù…”. Nói sương mù là hình dung Thượng tiêu nhiều khí.
Thiên Quyết khí, sách Linh khu viết: “Thượng tiêu phân bổ khí ngũ cốc đi khắp nơi làm ấm da dẻ, nuôi thân thể, mượt tóc như sương mù rơi xuống gọi là khí”.
Sách Trương thị loại kinh giải thích: “Tỳ tán tinh khí ra, khí ấy như sương mù và quy về Phế, nên nói Thượng tiêu như sương mù”.
Chính vì Thượng tiêu đưa khí đi khắp toàn thân mà có tác dụng làm ấm ngoài da, mượt lông tóc, vì thế phần cơ biểu được dinh dưỡng và do đó phát sinh được công năng bảo vệ ở ngoài (gọi là Vệ khí). Nếu cơ năng của Thượng tiêu mất bình thường, sự phân bố bị trở ngại, da dẻ không được sự ôn nhuận của Vệ khí, lỗ chân lông mở đóng không thuận lợi sẽ sinh ra hiện tượng rét run phát nóng.
Ngoài ra Thượng tiêu còn có công năng chủ việc thu nạp. Nạp bao gồm thu nhận cả hô hấp và ăn uống, bởi vì Vị chủ việc tiếp nạp đồ ăn không để nôn ra ngoài, Phế chủ việc hô hấp. Cả 2 tạng phủ ấy đều khai khiếu ở Thượng tiêu cho nên nói Thượng tiêu có công dụng chủ việc thu nạp.
* Trung tiêu:
Thiên Dinh vệ sinh hội , sách Linh khu nói: “Trung tiêu như bọt nước sủi lên”. Bọt nước sủi lên là chỉ vào trạng thái hóa sinh của Tỳ Vị. Bởi vì, nhìn vào phạm vi của Trung tiêu và công năng của Tạng phủ ở trong đó thì chủ yếu là vận hóa thủy cốc và chưng bốc khí huyết tân dịch để nuôi dưỡng khắp toàn thân. Trong quá trình ấy, động lực của 1 loạt hoạt động hóa sinh, trừ công năng của Tỳ Vị ở Trung tiêu ra, thì hạ tiêu cũng góp 1 phần tác dụng nhất định trong đó.
Chức năng Trung tiêu bao gồm: thu nạp cốc khí, lọc cặn bã, chưng tân dịch, làm thành tinh hoa đưa lên Phế mạch biến hóa ra sắc đỏ gọi là Huyết. Tác dụng của Trung tiêu chủ yếu là hóa thủy cốc thành ra khí huyết tân dịch, là chất có đủ tác dụng dinh dưỡng. Sở dĩ gọi như bọt nước sủi lên là muốn nói đến hoạt động sinh lý như làm chín thức ăn uống, chưng hóa tân dịch, tiếp thu tinh khí của thủy cốc, hóa sinh ra khí.
* Hạ tiêu:
Thiên Dinh vệ, sách Linh khu nói: “Hạ Tiêu như ngòi rãnh”. Sách Trương thị loại kinh nói “Ngòi rãnh là chỗ chảy nước ra” ý nói Hạ tiêu chủ việc xuất chứ không chủ nạp. Cho nên công năng chủ yếu của hạ tiêu là thấm thủy dịch xuống, gạn lọc ra thanh trọc và bài tiết ra đại tiểu tiện ở tiền âm và hậu âm.
Như vậy, hoạt động của Tam tiêu có thể tóm tắt lại như sau:
1. Con đường vận hành nước (thông điều đường nước) trong cơ thể đều theo con đường của Tam Tiêu.
Khi ta ăn uống vào, Vị là bể chứa và làm chín nhừ. Từ Vị các vật chất ở dạng gọi là nước sẽ thấm và tản theo màng mỡ, thấm và tản được vào trong màn mỡ là nhờ sự tuyên bổ của Phế khí. Nước từ màng mỡ sẽ thấm xuống Bàng quang, phần nước ở trong Tiểu trường cũng phát tán theo con đường của hạ tiêu vào Bàng quang khi nó chưa hóa khí.
2. Con đường hóa khi hay chủ trì các khí của Tam tiêu.
Thủy dịch từ khi ăn uống vào đến bất cứ tạng phủ nào để giúp cho hoạt động đều có quá trình khí hóa để tạo ra dạng vật chất cho Tạng phủ đó, kể cả khi thấm vào màng mỡ, hoặc từ Tiểu trường đi ra đều bị hỏa chưng cất hóa thành khí. Còn các nước chưa hóa được nhập vào Bàng quang, dưới đáy Bàng quang là khí hải cũng có tên là huyết thất. Qúa trình khí hóa ở Bàng quang bắt nguồn từ huyết thất này bốc lên thành khí (nước không hóa được sẽ được thải ra ngoài). Khí được hóa này sẽ bốc lên theo con đường của Tam tiêu lên đến hung cách, yết hầu. Đây là con đường hô (thở ra ngoài). Phần khí theo màng mỡ ra ngoài đến tứ chi sẽ theo con đường cơ nhục, xuất ra ở bì mao, đó chính là Vệ khí bảo vệ mặt ngoài của cơ thể.
Như vậy ta biết rằng sự liên hệ giữa tạng phủ với nhau do con đường của Tam tiêu, Tam tiêu là màng mỡ. Gốc của nó phát ra từ Thận hệ tức Mệnh môn. Phần trên của nó quy kết ở Tâm bào lạc, Tam tiêu bao gồm cả lục phủ ngũ tạng, 12 kinh mạch, có những công dụng hô hấp, tiêu hóa thức ăn uống hấp thụ, bài tiết, hóa sinh khí huyết nên mới nói Tam tiêu có quan hệ với công năng khí hóa của toàn bộ cơ thể.
3. Các quan hệ của Tam tiêu:
a. Tam Tiêu thuộc kinh Thủ Thiếu dương trong 12 kinh:
Khởi đầu từ chót ngón tay nhẫn phía ngón út lên dọc theo ngoài cổ tay, lên khuỷu tay, dọc phía ngoài cánh tay lên vai ra sau giao với kinh mạch Túc Thiếu dương, vào hõm vai, tỏa ra ở chiên trung liên lạc với Tâm bào xuống cách mô rồi đến tam tiêu.
b. Quan hệ giữa Tam tiêu và Tâm bào:
Tâm bào là ngoại vệ bao bọc Tâm nhưng được coi là 1 tạng. Tam tiêu là Phủ. Quan hệ giữa Tâm bào và Tam tiêu là quan hệ giữa tạng và phủ.
Hơn thế nữa, Tam tiêu là bộ phận bảo vệ ở ngoài Tạng Phủ, Tâm bào lạc là bảo vệ ở ngoài cho Tâm, cũng như hai lần thành của cửa nhà vua. Cho nên đều thuộc dương và đều gọi là tướng hỏa.
Vì thế Tam bào và Tam tiêu về công dụng là biểu lý thông nhau, phối hợp chặt chẽ với nhau.
4. Triệu chứng bệnh của Tam tiêu:
Bệnh của Tam tiêu chủ yếu là về mặt thủy khí vận chuyển phát sinh chướng ngại.
- Nếu Thượng tiêu không thông lợi thi sinh suyễn đầy.
- Trung tiêu không thông lợi thì thủy ẩm ngưng trệ mà bụng đầy.
- Hạ tiêu không thông lợi thì thấy phù nề.
Mặt khác, do mỗi bộ phận của Tam tiêu đều bao bọc một số tạng khí nên chứng trạng Thượng tiêu luôn bao gồm chứng trạng của Tâm Phế; chứng trạng Trung tiêu bao gồm chứng trạng của Tỳ Vị và chứng trạng hạ tiêu bao gồm cả Can Thận, Đại tiểu trường.
- Chứng trạng Thượng tiêu quan hệ chặt chẽ với bệnh biến của Tâm và Phế.
. Hư hàn: tinh thần không yên, đoản hơi. Nói không ra tiếng.
. Thực nhiệt: ngực bế tắc, đổ mồ hôi trán. Lưỡi khô, họng sưng, suyễn đầy.
- Chứng trạng Trung tiêu quan hệ chặt chẽ với Tỳ, Vị.
. Hư hàn: bụng đau, ruột sôi. Tiêu lỏng mà không thông. Bụng đầy, ưa nắn bóp.
. Thực nhiệt: bụng đầy trướng. Không mửa. Không đi cầu. Suyễn cấp.
- Chứng trạng hạ tiêu quan hệ chặt chẽ với Can, Thận, Đại tiểu tràng.
. Hư hàn: đại tiện lỏng không dứt.Tiểu tiện trong dài, hoặc són đái. Bụng đầy, phù nề.
. Thực nhiệt: đại tiểu tiện không thông. Đi ngoài ra máu.
  Tam tiêu biện chứng

1. Chứng của thượng tiêu
Bao quát chứng trạng của bệnh phế và tâm bào, nếu thấy phát sốt sợ lạnh, ho hắng, khí suyễn,

mạch phù, là chứng của bệnh phế, nếu chuyển ngược vào tâm bào thì thấy thần mờ tối, nói
nhảm, lưỡi cứng, chi lạnh là chứng của tâm bào. Đó là thời kỳ đầu tiên của bệnh sốt thời khí,
tương đương với chứng của phần vệ và chứng nghịch chuyển doanh huyết.

2. Chứng của trung tiêu
Bao quát chứng của bệnh ở vị, và tỳ, như phát sốt không sợ lạnh, ngược lại mà sợ nóng, mặt

hồng, mắt đỏ, tiện bí, tiểu tiện ít, rêu lưỡi vàng là chứng trạng của nhiệt ở trường vị. Phát sốt
không cao, ngực, bụng trên bĩ bứt rứt, quặn bụng, phân lỏng nhão, mình nặng mệt mỏi, rêu
lưỡi nhầy, mạch hoãn, là tỳ uẩn thấp nhiệt (tỳ có thấp nhiệt ẩn náu). Đó là thời kỳ cao nhất của
bệnh sốt thời khí, tương đương với chứng của bệnh ở khí phần.

3. Chứng của hạ tiêu
Bao quát chứng trạng của bệnh can, thận, như tà nhiệt hao thương thận âm có thể thấy lòng

bàn tay bàn chân nóng, họng khô, tâm bứt rứt không ngủ được. Thận âm hao dẫn đến can âm
hao, can phong nội động có thể thấy tay chân co động, tứ chi lạnh như băng, tâm động, nhảy,
đó là thời kỳ cuối của bệnh sốt thời khí, tương đương với chứng của bệnh ở huyết phần.
Tam tiêu biện chứng cho rằng: Bệnh sốt thời khí đầu tiên xâm phạm vào thượng tiêu, và từ
thượng tiêu hướng xuống trung tiêu và hạ tiêu mà chuyển biến.

 
  

Y Học Hiện Đại cho rằng Tam Tiêu là hệ thống màng mỡ bao phủ quanh các cơ quan nội tạng và xương cốt, và gắn liền với các chuỗi Hạch  trong cơ thể
 
  SAM_0514.JPG, 138 KB

Các chuỗi hạch ở...
   420180-SAM_0518.JPG, 100 KB
Ngực cổ...

    SAM_0521.JPG, 112 KB
Bụng, nội tạng...

SAM_0516.JPG, 105 KB
Bụng dưới....

Liên quan đến Thượng Tiêu, Trung Tiêu và Hạ Tiêu
   SAM_0579.JPG, 116 KB
   Trong hệ thống Tam Tiêu
  
Theo Y Lý Cổ Truyền (và Y Học Đương Đại cũng vậy):
-         Biết được triệu chứng, hiểu rõ nguyên nhân và ta toa dụng thuốc, thủ huyệt đúng cách để trị bệnh là Hạ Sách
-         Biết được triệu chứng, hiễu rõ nguyên nhân, dùng cách ăn uống hợp lý để trị bệnh là Trung Sách
-         Nâng cao chính khí, hành khí hoạt huyết, dưỡng tâm, kiện thể, phòng bệnh và tăng cường sức đề kháng, khai mở tiềm năng tự điều hòa của cơ thể đó là Thượng Sách
Ví dụ một phương pháp trong hệ thống Hạ Sách đặc trị Tam Tiêu

ĐIỀU TRỊ KINH TAM TIÊU BẰNG CHÂM CỨU

Tam Tiêu Hư :

. Châm bổ huyệt Trung Chử (Ttu.3) vào giờ Tý [23-1g] (đây là huyệt Du Mộc, Mộc sinh Hỏa - Hư bổ mẫu) (Châm Cứu Đại Thành).
. Chấn phấn Tam Tiêu: dùng huyệt Du (Tam Tiêu Du - Bq.22) + Mộ (Âm Giao - Nh.7) + huyệp Hợp ở dưới của Tam Tiêu (Hạ Cự Hư - Vi.39, Thượng Cự Hư - Vi.37). châm bổ, có thể dùng phép cứu (Châm Cứu Lâm Sàng Biện Chứng Luận Trị).

Tam Tiêu Thực:

. Châm tả huyệt Thiên Tỉnh (Ttu.10) vào giờ Hợi [21-23g] (đây là huyệt Hợp Thổ, Hỏa sinh Thổ - Thực tả tử) (Châm Cứu Đại Thành).
. Thanh lợi thấp nhiệt: dùng huyệt Mộ của kinh Tam Tiêu (Âm Giao (Nh.7) + Thạch Môn - Nh.5) + huyệt Hợp ở dưới của Tam Tiêu (Hạ Cự Hư - Thượng Cự Hư - Vi.37) làm chính. Châm tả, không cứu (Châm Cứu Lâm Sàng Biện Chứng Luận Trị).
THỰC:
Tả: Thiên Tĩnh (Hợp + h.Tả - Ttu.10), Dương Trì (Nguyên - Ttu.4), Ngoại Quan (Lạc - Ttu.5), Tam Tiêu Du (Bq.22), Đại Lăng (Tb.5)
Phối:
Túc Tam Lý (Vị.36), Đại Cự (Vị.27), Thương Khâu (Ty.5)
HƯ:
Bổ: Trung Chử (Du + huyệt Bổ - Ttu.3), Dương Trì (Nguyên - Ttu.3), Ngoại Quan (Lạc - Ttu.5), Chiên Trung (Nh.17), Trung Quản (Nh.12), Thạch Môn (Nh.5).
Phối: Trung Xung (Tb.9), Túc Lâm Khấp (Đ.41), Đại Đôn (C.1), Đại Đô (Ty.2), Đởm Du (Bq.19), Nhật Nguyệt (Đ.24), Phục Lưu (Th.7).

LẠC NGANG:

THỰC: Tả: Ngoại Quan (Lạc - Ttu.5), Bổ: Đại Lăng (Nguyên - Tb.7).
HƯ: Bổ: Dương Trì (Nguyên - Ttu.5), Tả: Nội Quan (Lạc - Tb.6).

LẠC DỌC :

THỰC: Tả: Ngoại Quan (Lạc - Ttu.5)
HƯ: Bổ: Nội Quan (Lạc - Tb.6), Tả: Dương Trì (Nguyên - Ttu.5)

KINH BIỆT:

RỐI LOẠN DO TÀ KHÍ:

Châm:Phía đối bên bệnh: Quan Xung (Tỉnh - Ttu.1), Trung Xung (Tỉnh - Tb.9)
=Phía bên bệnh: Trung Chử (Du - Ttu.3, Đại Lăng (Du - Tb.7)
RỐI LOẠN DO NỘI NHÂN: Âm Khích (Khích - Tm.6), Hội Tông (Khích - Ttu.7), Túc Tam Lý (Vị.36), Trung Chử (Du + huyệt Bổ - Ttu.3), Giác Tôn (Ttu.20), Thiên Dũ (Ttu.16)

KINH CÂN:

THỰC: Tả: A Thị huyệt kinh Cân, Bổ: Trung Chử (Du + huyệt Bổ - Ttu.3)
Phối: Quan Xung (Tỉnh - Ttu.1), Thiên Tĩnh (Ttu.10), Bản Thần (Đ.13)
HƯ: Bổ: Cứu A Thị huyệt kinh Cân, Quan Xung (Tỉnh - Ttu.1) Tả: Thiên Tỉnh (Hợp + huyệt Tả - Ttu.10).
Phối: Trung Chử (Du - Ttu.3), Bản Thần (Đ.13).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét