Những
hàm lượng khoáng chất trong cơ thể (vi lượng, mineralien) đóng một vai
trò cực kỳ quan trọng cho sự sống. Nó chính là những nguyên tố mang
lại tính chất bền vững và lâu dài cho sự sống. Các nguyên tố như
Calcium, Natrium, Phospho, Kalium, Mangen, Magnenium, Chlor... nằm ở
dạng các loại hợp chất trong cơ thể, khi thiêu đốt xác chết thì các
loại vi lượng đó vẫn còn lại và không thiêu hủy, người ta gọi là Tro
Khoáng Chất. Khi thiêu cháy xác người, người ta luôn luôn thu được 12
loại tro, đó là các loại: 1/ Calcium phosphoricum, 2/ Calciumflouratum,
3/ Ferumphosphoricum, 4/ Kaliumphosphoricum, 5/ Kaliumchloratum, 6/
Kaliumsulfuricum, 7/ Magneniumphosphoricum, 8/ Natriumchloratum, 9/
Natriumphosphoricum, 10/ Natriumsulfuricum, 11/ Silicea và 12/
Calciumsulfuricum.
Tất cả các tài liệu Y khoa khẳng định hầu hết các bệnh tật liên quan
đến chức năng hoạt động của cơ thể đều có nguyên nhân từ việc thiếu hụt
hay quá dư thừa các nguyên tố vi lượng này, nhất là các bệnh về tim
mạch, gân xương, thần kinh và sức đề kháng.
Cơ thể thu nạp bổ
sung các nguyên tố vi luợng này thông qua con đường ăn uống và tiêu hóa
(Đông Y gọi là khí Hậu Thiên tích nạp từ Ngũ Cốc). Điều này khẳng định
một mệnh đề trong y lý cổ truyền là: "Bệnh tòng khẩu nhập, tất bệnh từ
khẩu xuất". Bệnh từ cái miệng mà vào (ăn uống) thì tất nhiên từ ăn
uống mà đưa bệnh đi ra.
Ngày nay ở các nước phát triển người
ta cực kỳ chú trọng đến phương pháp chữa bệnh từ các loại Vi lượng
này. Nguời ta thử nghiệm, đo đạc và kiểm tra xác định các loại vi lượng
bị thiếu từ đó xảy ra bệnh gì, và kịp thời bổ sung ngay vi luợng thiếu
hụt đó để trị bệnh. Bạn đến bất kỳ một hiệu thuốc nào trên châu Âu cũng
đều có 12 loại Vi luợng đúng như 12 loại tro cơ bản ấy, Có đánh số thứ
tự từ 1 đến 12 như tôi đã trình bày trên. Sự thiếu hụt các loại vi
lượng đó của cơ thể có nguyên nhân cơ bản nhất là do ăn uống không đúng
cách (thiếu chất).
Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014
VIỆC THỞ QUAN TRỌNG THẾ NÀO
Bạn nên biết những thông tin quan trọng này về cơ thể của con người:
Trọng lượng trung bình:....................... 70 kg
Thể tích:.......................................... 80 lít
Trong đó:
Ôxy chiếm....................................... 41,1 kg
Cacbon .......................................... 14 kg
Hydro............................................. 7 kg
Nitơ................................................ 2,1 kg
Calcium........................................... 1 kg
Phosphor........................................ 0,7 kg
Kalium........................................... 0,17 kg
Lưu huỳnh...................................... 0,14 kg
Chlor............................................. 70 g
Natrium.......................................... 70 g
Magnesium..................................... 30 g
Sắt................................................ 3 g
Đồng............................................. 300mg
Mangan.......................................... 100mg
I-ốt................................................ 30mg
Máu có khoảng 5-6 lit, chiếm 6-8% trọng luợng cơ thể.
Chiều dài toàn bộ mạch máu khoảng 150.000 km tức là 150 triệu mét. (Một con số khủng khiếp tức là dài gấp hơn 12 lần đường kính Trái Đất).
Tổng bề mặt của hồng huyết cầu có diện tích vào khoảng 4000 m vuông, và cứ 120 ngày thì đổi mới hoàn toàn.
Chiều dài của ruột khoảng 8 m, tổng diện tích bề mặt là 400 m vuông.
Tổng diện tích bề mặt làm việc của phổi khoảng vào 80 m vuông.
Tổng số tế bào có vào khoảng 70 ngàn tỷ (70 triệu triệu tế bào).
Trong đó tế bào não bộ chiếm 100 tỷ (tế bào thị giác 130 triệu, tế bào khứu giác 200 triệu và tế bào vị giác 750 ngàn).
Trong tổng trọng lượng của cơ thể là 70 kg thì nguyên tố Ôxy chiếm hết 41,1 kg có nghĩa là gấn 60% trọng lượng cơ thể.
Ôxy là nguyên tố vật chất cơ bản của sự sống, ở đâu có Ôxy thì ở đó có năng lượng sống.
Nếu để có 41 kg khí Ôxy nguyên chất trong tầng khí quyển 2 m kể từ mặt đất thì cần phải có vào 4000 km2 mặt đất, tức là tương đương với diện tích thành phố Hà Nội mở rộng bây giờ (3324,92 km2) và gấp đôi diện tích Sài Gòn (2095,1 km2). Có thể hiểu nôm na rằng trong cơ thể của bạn đang tàng trữ một tiềm năng sinh lực của vũ trụ tương đương với tiềm năng bao quanh thành Phố Hà Nội và gấp 2 lần thành phố Sài Gòn. Làm chủ được 41 kg Ôxy luôn luân chuyển trong cơ thể của bạn là làm chủ được năng lực vũ trụ tương đương với năng lực của cả thành phố Hà Nội. Với năng lực vũ trụ đó bạn có thể làm nên những kỳ tích của Tự Nhiên từ cơ thể của bạn. Chỉ có những sinh vật có trí tuệ mới có khả năng làm chủ và vận động được năng lượng sinh tồn đó mà thôi.
Với tổng diện tích bề mặt làm việc của phổi là 80 m2, và khoảng 12-15 hơi thở trong một phút. Mỗi lần thở thì được 500 ml tức là vào khoảng 6-8 lít/1 phút, trong đó có 250 ml Ôxy đi vào và 200 ml khí CO2 trở ra. Trong hơi thở ra có rất nhiều khí thải từ trong cơ thể, Khoa học đo được vào khoảng 250 loại khí thải khác nhau ví dụ như methane hay là khí rượu đậm đặc (khi uống rượu) hay là acetone đậm đặc (khi nhịn ăn)... Cho nên hít thở đúng cách cũng là một phương pháp giải độc rất hữu hiệu.
41 kg gam Ôxy trong cơ thể chiếm 60% trọng lượng của cơ thể cũng có thể hiểu nôm na rằng sẽ có 60% bệnh tật sẽ xảy ra có nguyên nhân từ nguyên tố này, và ngược lại cũng sẽ có ít nhất là 60% các phương pháp trị liệu từ việc thở.
Những bộ môn khoa học nghiên cứu về các hiện tượng huyền bí và năng lực siêu nhiên của con người đều khẳng định: "Chính hơi thở của con người đã làm nên những kỳ tích mà cứ ngỡ là các hiện tượng siêu nhiên".
Làm chủ hơi thở là một phương pháp để làm nên những kỳ tích trên cơ thể của bạn, chứ kỳ tích không có từ đấng siêu nhiên nào ban tặng cho bạn cả.
Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014
5 phương pháp Thở
5 phương pháp Thở của Công phu được chia thành như sau:
1- Tự Tức: Là cách thức hô hấp theo khả năng của bẩm thụ tự nhiên. Người có hơi thở ngắn, thì thở ngắn, người có hơi thở dài thì thở dài. Thở một cách bình thường, không có sự khống chế của ý nghĩ hay hay sự tiết chế của ý chí. Nhưng vẫn phải tuân thủ theo cách thở bụng và thở bằng mũi
2- Tưởng Tức: Là cách hô hấp, hít vào thở ra có sự theo dõi của ý chí. Ví dụ hít vào, tâm trí chỉ đạo cần phải hít vào, thở ra, tâm trí kiểm soát sự thở ra. Hay nói cách khác, ý chí và tâm thức cần bám theo hơi thở để an định Tâm, không cho Tâm thức vọng niệm lung tung làm tán khí. Vì lúc kiểm soát hơi thở, tâm thức luân cùng theo hơi thở mà hành ý, nên Ý vững, anh định, thì Khí mới cường thuận được.
3- Hành Tức: Là cách thâu nhiếp hô hấp có sự sắp xếp, tiết chế và điều hành của ý chí. Đây là phương pháp luyện công nhằm mục đích dùng hơi thở dẫn khí đi qua những kinh mạch mà mình cần thông hoạt hay thủ dụng. Bởi vì Bí Kíp của Khí Công là Dùng Mắt Dẫn Ý, Ý Tự Dẫn Khí. Nhờ đó mà Ý đến tức Khí đến, Khí Hành thì Huyết Hoạt (Chân Kinh). Có nghĩa là mắt nhìn đâu, thì Ý đặt ở đó. Ý đặt đâu thì Khí chạy đến đó. Để đạt được những công phu tối thượng, phi thường. Hành Giả các môn Khí Công thượng thừa đều nhờ vào cách thâu nhiếp hô hấp này. Hơi thở hai thì, hơi thở ba thì, hơi thở bốn thì, hơi thở âm công, hơi thở dương công, hơi thở hỏa xà....đều thuộc về cách thâu nhiếp Hành Tức
4- Tiềm Tức: Là hơi thở của Tiềm Thức, nó khác với hơi thở tự nhiên của Tự Tức về cảnh giới an định, nhưng về hình thức thì giống nhau. Đó là hơi thở hàm chứa công phu của Tưởng Tức và Hành Tức, nhưng đã trở thành một phản xạ tự nhiên của cơ thể. Hơi thở không có sự tiết chế của ý thức. Nhưng lại có sự chi phối của Tiềm Thức. Cách thở này còn gọi là Thở Vô Thức. Người có thành tựu Tiềm Tức, thường có hơi thở chậm, và thở rất ít lượng hơi. Và họ có một khả năng khác thường là không chỉ thở bằng mũi mà họ thở bằng Đan Điền và thở bằng Biểu Bì. Có nghĩa là sự thu nạp dưỡng khí và bài tiết trọc khí không cần phải qua phổi và mũi. Đan điền và da tóc của họ cũng có thể thẩm thấu được dưỡng khí cần thiết cho sự sống. Họ là những bậc Phi Phàm
5- Qui Tức: Là hơi thở như giống rùa. Thở rất ít, rất chậm và hầu như ngưng thở. Nhịp tim của họ rất thấp. Và họ có khả năng giả chết lâu dài như chết thật, và họ có khả không cần dưỡng khí trong một thời gian dài, trái với qui luật của tự nhiên. Điều mà làm đau đầu và tốn hết rất nhiều thời gian tranh cãi cho các nhà khoa học. Những người này thường có những quyền năng siêu nhiên. Họ là các bậc Thánh Nhân
Diễn giải theo Kinh Sách cho cạn nghĩa vậy thôi. Chứ bí quyết thành công của Khí Công là ở chỗ: Hít Vào, Thở Ra, Nâng Lên Hạ Xuống, Dang Ra Kéo Về một cách hài hòa, đúng cách là được.
Như thế nào là đúng cách: Là chuyên cần, thường xuyên, tâm, thân, ý, hơi thở hợp nhất thành MỘT là đại cô
1- Tự Tức: Là cách thức hô hấp theo khả năng của bẩm thụ tự nhiên. Người có hơi thở ngắn, thì thở ngắn, người có hơi thở dài thì thở dài. Thở một cách bình thường, không có sự khống chế của ý nghĩ hay hay sự tiết chế của ý chí. Nhưng vẫn phải tuân thủ theo cách thở bụng và thở bằng mũi
2- Tưởng Tức: Là cách hô hấp, hít vào thở ra có sự theo dõi của ý chí. Ví dụ hít vào, tâm trí chỉ đạo cần phải hít vào, thở ra, tâm trí kiểm soát sự thở ra. Hay nói cách khác, ý chí và tâm thức cần bám theo hơi thở để an định Tâm, không cho Tâm thức vọng niệm lung tung làm tán khí. Vì lúc kiểm soát hơi thở, tâm thức luân cùng theo hơi thở mà hành ý, nên Ý vững, anh định, thì Khí mới cường thuận được.
3- Hành Tức: Là cách thâu nhiếp hô hấp có sự sắp xếp, tiết chế và điều hành của ý chí. Đây là phương pháp luyện công nhằm mục đích dùng hơi thở dẫn khí đi qua những kinh mạch mà mình cần thông hoạt hay thủ dụng. Bởi vì Bí Kíp của Khí Công là Dùng Mắt Dẫn Ý, Ý Tự Dẫn Khí. Nhờ đó mà Ý đến tức Khí đến, Khí Hành thì Huyết Hoạt (Chân Kinh). Có nghĩa là mắt nhìn đâu, thì Ý đặt ở đó. Ý đặt đâu thì Khí chạy đến đó. Để đạt được những công phu tối thượng, phi thường. Hành Giả các môn Khí Công thượng thừa đều nhờ vào cách thâu nhiếp hô hấp này. Hơi thở hai thì, hơi thở ba thì, hơi thở bốn thì, hơi thở âm công, hơi thở dương công, hơi thở hỏa xà....đều thuộc về cách thâu nhiếp Hành Tức
4- Tiềm Tức: Là hơi thở của Tiềm Thức, nó khác với hơi thở tự nhiên của Tự Tức về cảnh giới an định, nhưng về hình thức thì giống nhau. Đó là hơi thở hàm chứa công phu của Tưởng Tức và Hành Tức, nhưng đã trở thành một phản xạ tự nhiên của cơ thể. Hơi thở không có sự tiết chế của ý thức. Nhưng lại có sự chi phối của Tiềm Thức. Cách thở này còn gọi là Thở Vô Thức. Người có thành tựu Tiềm Tức, thường có hơi thở chậm, và thở rất ít lượng hơi. Và họ có một khả năng khác thường là không chỉ thở bằng mũi mà họ thở bằng Đan Điền và thở bằng Biểu Bì. Có nghĩa là sự thu nạp dưỡng khí và bài tiết trọc khí không cần phải qua phổi và mũi. Đan điền và da tóc của họ cũng có thể thẩm thấu được dưỡng khí cần thiết cho sự sống. Họ là những bậc Phi Phàm
5- Qui Tức: Là hơi thở như giống rùa. Thở rất ít, rất chậm và hầu như ngưng thở. Nhịp tim của họ rất thấp. Và họ có khả năng giả chết lâu dài như chết thật, và họ có khả không cần dưỡng khí trong một thời gian dài, trái với qui luật của tự nhiên. Điều mà làm đau đầu và tốn hết rất nhiều thời gian tranh cãi cho các nhà khoa học. Những người này thường có những quyền năng siêu nhiên. Họ là các bậc Thánh Nhân
Diễn giải theo Kinh Sách cho cạn nghĩa vậy thôi. Chứ bí quyết thành công của Khí Công là ở chỗ: Hít Vào, Thở Ra, Nâng Lên Hạ Xuống, Dang Ra Kéo Về một cách hài hòa, đúng cách là được.
Như thế nào là đúng cách: Là chuyên cần, thường xuyên, tâm, thân, ý, hơi thở hợp nhất thành MỘT là đại cô
Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014
Cách học
"Thầy tôi dạy nghề cho tôi không
giống ai cả. Khi giao cho tôi một cuốn sách, hay một bài học nào đó, lúc
trả bài chỉ được phép gói gọn lại vài câu cốt tủy nhất mà thôi, không
được phép nói quá dài. Nhưng khi Thầy khảo bài, thầy lại ra một chữ, hay
nhiều lắm là 9 chữ, tùy theo nội dung, rồi hỏi tôi chữ đó có thể nói
được bao lâu, thông thường một chữ của Thầy khảo, ít nhất tôi phải giải
thích từ 1 đến 2 tiếng đồng hồ. Có nghĩa là sách, hay là trước tác Y
thuật của tiền nhân để lại, Thầy giao cho tôi đọc, nghiên cứu, làm thế
nào mà thấu ngộ hết nội dung và bắt buộc khi trình bày lại, phải thật
ngắn gọn, nếu câu trả lời không ngắn đến chỗ không thể nào ngắn hơn được
nữa, thì lại phải tiếp tục nghiên cứu tiếp, chứ chưa được nhận ý chỉ
mới. Ngược lại khi Thầy khảo bài thì Thầy chỉ đọc lên một chữ, hay một
câu dăm bảy chữ gì đó, tôi chỉ được phép định tâm suy nghĩ độ năm mười
phút gì đó rồi trả lời là chữ đó tôi có thể lý giải được trong bao lâu.
Nếu tôi nói, tôi giải thích được 30 phút hay 1 tiếng chẳng hạn, Thầy xét
thấy thời gian lý giải quá ngắn, thì không chấp nhận. Bắt phải học lại
đề tài đó, và ra điều kiện phải lý giải trong bao lâu, nếu khi nào có
thể đáp ứng yêu cầu đó, thì mới trình Thầy để tiếp tục khảo luận.
Ví dụ khi học về các tác nhân gây bệnh trong y lý. Thầy giao cho tôi mấy tập sách như Thương hàn Luận, Hình Giản Trân Nhu, Bệnh lý chỉ Lược...Khi trả bài tôi nói một câu: "Nội Nhân Thất Tình, Ngoại Nhân Lục Dục, Bất Nội Bất Ngoại Nhân" (Nguyên nhân từ bên trong do 7 loại tình chí gây ra, nguyên nhân bên ngoài do sáu loại tà khí gây ra, và có những nguyên nhân đặc biệt không do nội, ngoại nhân gây ra). Thầy nói: "Còn quá dài". Tôi nhắm mắt định thần suy nghĩ lại hồi lâu rồi trả lời lại : " Thất Tình, Lục Khí". Thầy lại nói: "Dư một chữ". Tôi lại định thần suy nghĩ, cuối cùng phải đầu hàng: "Thưa Thầy, con chịu". Chịu thì lại phải tiếp tục công phá cả mấy cuốn sách kia để tìm cho được 3 chữ cốt tủy. Mấy tuần sau khi trả bài lại, thấy tôi tủm tỉm cười, Thầy nói: "Ba chữ gì, con nói nghe coi". Tôi nói: "Chính khí suy". Thầy xoa đầu tôi và đi pha trà, không cần tôi phải trình bày thêm một chữ nào nữa hết. Có nghĩa là Thầy hài lòng và chấp nhận khóa học đã kết thúc về phần "đầu vào". Hôm sau đến lượt "đầu ra". Lúc tọa Thiền, Thầy hỏi : "Nộ" (giận dữ). Tôi nhắm mắt định thần suy xét xem cái hiểu biết của nình nói về cái Đệ Nhị Tình Chí trong Thất Tình (hỷ-nộ-ưu-tư-bi-kinh-khủng: Vui-Giận-Buồn-Lo-Nghĩ-Sợ hãi-Khiếp đảm) được bao nhiêu, và có thể lý giải trong bao lâu. Gói ghém tất cả những lý luận về ảnh hưởng của trạng thái giận dữ đến với sức khỏe, nếu giận dữ thái quá thì gây nội thương cho phủ tạng nào trong cơ thể, tình trạng phủ tạng đó bị nội thương có những biểu hiện gì, và triệu chứng ở mạch bộ như thế nào, ở lưỡi như thế nào, ở mắt như thế nào. Nếu bị nội thương do Nộ gây ra, thì dùng phương pháp gì để chữa trị, nếu châm cứu thì thủ những huyệt nào, dùng thuốc thì phương toa nào, liều lượng thảo dược bao nhiêu, và vì sao...Sau khi lướt qua kiến thức, tôi trả lời : " Thưa thầy, khoảng 3 giờ" ( có nghĩa là tôi sẽ trình bày trong 3 tiếng đồng hồ cho cái chữ "Nộ" của Thầy). Thầy gật đầu, có nghĩa là chấp nhận được. Tôi không cần phải trình bày gì cả. Thầy lại tiếp tục hỏi: "Thấp". Tôi lại nhập định để rà soát kiến thức về cái Đệ Tứ Tà Khí trong Lục dâm (phong-hàn-thử-thấp-táo-nhiệt: Gió-Lạnh-Nắng-Ẩm-Khô-Nóng) rồi trả lời :" Dạ 3 ngày và cộng thêm một đời ạ". Thầy mỉm cười biết tôi nắm kỹ được kiến thức. Khi gặp đề tài lớn như thế này, thỉnh thoảng Thầy lại ra đề dài chữ hơn để tôi trình bày. Ví dụ trong đề tài ngắn chữ "Thấp", Thầy ra thêm đề nhiều chữ (càng nhiều chữ càng dễ): "Thấp Nhiệt Nhập Dương Minh" có nghĩa là Thầy chỉ hỏi hạn hẹp trong phạm vi Thấp tà kết hợp với Nhiệt tà thâm nhập vào kinh Dương Minh (Thủ dương minh Đại trường và Túc dương minh Vị kinh), thì gây nên tình trạng gì, cách chữa trị ra sao. Những đầu đề nhiều chữ, là những đầu đề bắt buộc tôi phải lý giải.
Có lần tôi nói đùa rằng. Thầy dạy nghề cho tôi theo kiểu bán buôn lỗ vốn, vì khi khảo đầu vào thì càng ít chữ càng tốt, còn khảo đầu ra thì càng tràng giang đại hải càng hay. Phương pháp tiếp nhận kiến thức kiểu này tôi gọi là phương pháp học cụt vốn (sau này khi làm thơ có ít nhất trên 10 bài tôi sử dụng cái từ "cụt vốn" này). Còn Thầy thì giải thích đó là phương pháp phá công án, như kiểu phá công án trong Thiền. Chỉ có phương pháp này mới thấu ngộ vấn đề triệt để và nhanh nhất mà thôi. Nhưng không phải ai cũng thực hiện được, trừ phi Thầy trò có duyên, như cái duyên tao ngộ giữa tôi và Thầy vậy.
Như cái "Công Án" Kinh mạch huyệt đạo này, Thầy bắt tôi đọc tất cả sách nói về châm cứu, với gợi ý 380 huyệt đạo, thực ra chỉ có 120 huyệt cần dùng, trong 120 huyệt cần dùng, chỉ có 60 huyệt là dùng thường xuyên, trong 60 huyệt dùng thường xuyên, chỉ có 24 huyệt chủ yếu, trong 24 huyệt chủ yếu thì chỉ có 12 huyệt quan trọng, trong 12 huyệt quan trọng thực ra chỉ cần 6 huyệt là trị được bá bệnh, trong 6 huyệt trị được bá bệnh chung qui lại cũng chỉ có một huyệt. Khi nào "chỉ mặt đặt tên" được 24 huyệt chủ yếu, gọi là Hiểu, được 12 huyệt thì gọi là Thông, được 6 huyệt thì gọi là Thấu, chỉ ra được 1 huyệt thì gọi là Ngộ. Tôi biết rằng để "chỉ mặt đặt tên" cái Đệ Nhất Huyệt này, tôi phải ngấu nghiến nghiền ngẫm ít nhất cũng dư chục cuốn sách, và ít nhất cũng hàng năm mới phá nổi cái công án này. Vì vậy tôi không bỏ phí một khoảnh khắc thừa thãi nào, lúc nào cũng úp mặt vào mấy cuốn Châm cứu. Lúc nào thấy tôi ngất ngất, ngơ ngơ như người mất hồn thì Thầy lại dắt tôi "đi dạo".
Những cuộc "đi dạo" của chúng tôi mới thật táng đởm kinh hồn. Cuốc bộ từ Vinh đi Hương sơn, cuốc bộ từ Vinh đi Đô Lương, Nghĩa đàn, Con Cuông. Cuốc bộ từ ga Đò Lèn vượt Tam Điệp đi Ninh Bình, cuốc bộ dọc ngang khắp núi rừng Cẩm Thủy, Bá Thước..Và chuyến cuốc bộ lịch sử, khi Thầy giã từ Vinh để trở về Huế. Trong chuyến cuốc bộ hành hương này, chúng tôi phải vượt qua dãy Hồng Lĩnh, vượt Đèn Ngang, đèo Lý Hòa..để đổ bộ về Đồng Hới bằng đôi chân trần của mình. Sẽ có dịp tôi kể về những chuyến hành hương này. Bởi vì những kiến thức về nghề nghiệp, những hiểu biết về Phật Giáo và những bài học làm người của tôi, thực sự mới được bổ sung và củng cố trong những chuyến hành hương ấy."
Trích blog của thầy Thuận Nghĩa
Ví dụ khi học về các tác nhân gây bệnh trong y lý. Thầy giao cho tôi mấy tập sách như Thương hàn Luận, Hình Giản Trân Nhu, Bệnh lý chỉ Lược...Khi trả bài tôi nói một câu: "Nội Nhân Thất Tình, Ngoại Nhân Lục Dục, Bất Nội Bất Ngoại Nhân" (Nguyên nhân từ bên trong do 7 loại tình chí gây ra, nguyên nhân bên ngoài do sáu loại tà khí gây ra, và có những nguyên nhân đặc biệt không do nội, ngoại nhân gây ra). Thầy nói: "Còn quá dài". Tôi nhắm mắt định thần suy nghĩ lại hồi lâu rồi trả lời lại : " Thất Tình, Lục Khí". Thầy lại nói: "Dư một chữ". Tôi lại định thần suy nghĩ, cuối cùng phải đầu hàng: "Thưa Thầy, con chịu". Chịu thì lại phải tiếp tục công phá cả mấy cuốn sách kia để tìm cho được 3 chữ cốt tủy. Mấy tuần sau khi trả bài lại, thấy tôi tủm tỉm cười, Thầy nói: "Ba chữ gì, con nói nghe coi". Tôi nói: "Chính khí suy". Thầy xoa đầu tôi và đi pha trà, không cần tôi phải trình bày thêm một chữ nào nữa hết. Có nghĩa là Thầy hài lòng và chấp nhận khóa học đã kết thúc về phần "đầu vào". Hôm sau đến lượt "đầu ra". Lúc tọa Thiền, Thầy hỏi : "Nộ" (giận dữ). Tôi nhắm mắt định thần suy xét xem cái hiểu biết của nình nói về cái Đệ Nhị Tình Chí trong Thất Tình (hỷ-nộ-ưu-tư-bi-kinh-khủng: Vui-Giận-Buồn-Lo-Nghĩ-Sợ hãi-Khiếp đảm) được bao nhiêu, và có thể lý giải trong bao lâu. Gói ghém tất cả những lý luận về ảnh hưởng của trạng thái giận dữ đến với sức khỏe, nếu giận dữ thái quá thì gây nội thương cho phủ tạng nào trong cơ thể, tình trạng phủ tạng đó bị nội thương có những biểu hiện gì, và triệu chứng ở mạch bộ như thế nào, ở lưỡi như thế nào, ở mắt như thế nào. Nếu bị nội thương do Nộ gây ra, thì dùng phương pháp gì để chữa trị, nếu châm cứu thì thủ những huyệt nào, dùng thuốc thì phương toa nào, liều lượng thảo dược bao nhiêu, và vì sao...Sau khi lướt qua kiến thức, tôi trả lời : " Thưa thầy, khoảng 3 giờ" ( có nghĩa là tôi sẽ trình bày trong 3 tiếng đồng hồ cho cái chữ "Nộ" của Thầy). Thầy gật đầu, có nghĩa là chấp nhận được. Tôi không cần phải trình bày gì cả. Thầy lại tiếp tục hỏi: "Thấp". Tôi lại nhập định để rà soát kiến thức về cái Đệ Tứ Tà Khí trong Lục dâm (phong-hàn-thử-thấp-táo-nhiệt: Gió-Lạnh-Nắng-Ẩm-Khô-Nóng) rồi trả lời :" Dạ 3 ngày và cộng thêm một đời ạ". Thầy mỉm cười biết tôi nắm kỹ được kiến thức. Khi gặp đề tài lớn như thế này, thỉnh thoảng Thầy lại ra đề dài chữ hơn để tôi trình bày. Ví dụ trong đề tài ngắn chữ "Thấp", Thầy ra thêm đề nhiều chữ (càng nhiều chữ càng dễ): "Thấp Nhiệt Nhập Dương Minh" có nghĩa là Thầy chỉ hỏi hạn hẹp trong phạm vi Thấp tà kết hợp với Nhiệt tà thâm nhập vào kinh Dương Minh (Thủ dương minh Đại trường và Túc dương minh Vị kinh), thì gây nên tình trạng gì, cách chữa trị ra sao. Những đầu đề nhiều chữ, là những đầu đề bắt buộc tôi phải lý giải.
Có lần tôi nói đùa rằng. Thầy dạy nghề cho tôi theo kiểu bán buôn lỗ vốn, vì khi khảo đầu vào thì càng ít chữ càng tốt, còn khảo đầu ra thì càng tràng giang đại hải càng hay. Phương pháp tiếp nhận kiến thức kiểu này tôi gọi là phương pháp học cụt vốn (sau này khi làm thơ có ít nhất trên 10 bài tôi sử dụng cái từ "cụt vốn" này). Còn Thầy thì giải thích đó là phương pháp phá công án, như kiểu phá công án trong Thiền. Chỉ có phương pháp này mới thấu ngộ vấn đề triệt để và nhanh nhất mà thôi. Nhưng không phải ai cũng thực hiện được, trừ phi Thầy trò có duyên, như cái duyên tao ngộ giữa tôi và Thầy vậy.
Như cái "Công Án" Kinh mạch huyệt đạo này, Thầy bắt tôi đọc tất cả sách nói về châm cứu, với gợi ý 380 huyệt đạo, thực ra chỉ có 120 huyệt cần dùng, trong 120 huyệt cần dùng, chỉ có 60 huyệt là dùng thường xuyên, trong 60 huyệt dùng thường xuyên, chỉ có 24 huyệt chủ yếu, trong 24 huyệt chủ yếu thì chỉ có 12 huyệt quan trọng, trong 12 huyệt quan trọng thực ra chỉ cần 6 huyệt là trị được bá bệnh, trong 6 huyệt trị được bá bệnh chung qui lại cũng chỉ có một huyệt. Khi nào "chỉ mặt đặt tên" được 24 huyệt chủ yếu, gọi là Hiểu, được 12 huyệt thì gọi là Thông, được 6 huyệt thì gọi là Thấu, chỉ ra được 1 huyệt thì gọi là Ngộ. Tôi biết rằng để "chỉ mặt đặt tên" cái Đệ Nhất Huyệt này, tôi phải ngấu nghiến nghiền ngẫm ít nhất cũng dư chục cuốn sách, và ít nhất cũng hàng năm mới phá nổi cái công án này. Vì vậy tôi không bỏ phí một khoảnh khắc thừa thãi nào, lúc nào cũng úp mặt vào mấy cuốn Châm cứu. Lúc nào thấy tôi ngất ngất, ngơ ngơ như người mất hồn thì Thầy lại dắt tôi "đi dạo".
Những cuộc "đi dạo" của chúng tôi mới thật táng đởm kinh hồn. Cuốc bộ từ Vinh đi Hương sơn, cuốc bộ từ Vinh đi Đô Lương, Nghĩa đàn, Con Cuông. Cuốc bộ từ ga Đò Lèn vượt Tam Điệp đi Ninh Bình, cuốc bộ dọc ngang khắp núi rừng Cẩm Thủy, Bá Thước..Và chuyến cuốc bộ lịch sử, khi Thầy giã từ Vinh để trở về Huế. Trong chuyến cuốc bộ hành hương này, chúng tôi phải vượt qua dãy Hồng Lĩnh, vượt Đèn Ngang, đèo Lý Hòa..để đổ bộ về Đồng Hới bằng đôi chân trần của mình. Sẽ có dịp tôi kể về những chuyến hành hương này. Bởi vì những kiến thức về nghề nghiệp, những hiểu biết về Phật Giáo và những bài học làm người của tôi, thực sự mới được bổ sung và củng cố trong những chuyến hành hương ấy."
Trích blog của thầy Thuận Nghĩa
THƯỞNG TRÀ
"Trong lĩnh vực trà đạo gồm có 10
đẳng cấp, tương ứng với 10 cảnh giới mà người nghiện trà cần phải thẩm
thấu được. Đó là : "Nhất nước, nhì trà, tam pha, tứ ấm, ngũ hữu, lục
ly, thất qui, bát tọa, cửu tùy, thập không". Có nghĩa là người uống trà
cần phải phân biệt được sự uống, ngon hay dở tùy thuộc vào : Thứ nhất
là nước dùng pha trà. Thứ hai là loại trà. Thứ ba là cách pha. Thứ tư
là ấm để pha trà. Thứ năm là người cùng uống trà. Thứ sáu là ly dùng để
uống trà. Thứ bảy là qui cách uống trà. Thứ tám là cách ngồi uống
trà...
Hai cảnh giới cuối cùng là các cảnh giới thượng thừa của Trà Đạo đó là : "Cửu tùy. Thập không". Cảnh giới "cửu tùy" là cảnh giới thứ chín, người uống trà không còn lệ thuộc vào 8 cảnh giới trước nữa, mà nương tùy theo duyên trà mà cảm thụ được cái sự uống. Cảnh giới "Thập không" tức là cảnh giới thứ mười, uống như không uống, không uống vẫn như đang uống.
Mình nghiện uống trà mạn mộc (trà nguyên, không pha chế, không ướp hương) từ hồi mới mười mấy tuổi. Đến nay đã có gần 4 chục năm trải nghiệm. Và suốt gần 40 năm nay mình không uống một thứ nước gì khác ngoài nước trà. Vậy mà trầm trầy trầm trật mấy chục năm nay mới đạt đến cảnh giới thứ tám. Mặc dầu đã cố gắng hết sức vận rất nhiều năm công phu hàm dưỡng, mà vẫn chưa thấu ngộ được cảnh giới "Tùy" và "Không" ở trong Trà Đạo"
"Trà hôm nay không thơm như mọi khi, chát xốc, không đằm, nhưng màu xanh sánh, và dư vị, ngọt đậm hơn. Vừa nhấc quân cờ khai cuộc tôi vừa hỏi
- Trà xuân à?
- Ừ, trà vườn uống hết rồi, nhà chưa gửi kịp. Mà trà xuân sao lại đắng hơn nhỉ, dù không được nước, nhưng đằm ngọt ở lưỡi lâu hơn
- Vị của lửa là vậy mà. Tôi khề khà bâng quơ.
- Sao lại có chuyện lửa ở đây, sư phụ!
- Lộc trà xuân tàng ẩn Hỏa khí của mùa Hạ, nên chát khắt. Hỏa sinh thổ, nên sau vị chát của Hỏa thì dư vị của ngọt Thổ đằm lâu là đúng rồi, lửa dễ tắt chóng tàn. Trà xuân thâu tàng khí Hỏa nên không được nước là vậy.
- Vậy trà mùa nào uống ngon?
- Lộc trà mùa Thu, thì nồng vị Kim. Chỉ có trà thu hoạch vào mùa đông là chát dịu, hương dậy mà vị rất chung tình, đó là cái đặc điểm của lá trà ngậm khí Thủy, nếu vào dịp sương muối, lộc trà rúm quắt lại, thì uống càng phê.
Bích La Xuân, là loại trà Nhân Hương mà mình có mấy lần đã uống chứ gì. Ngày nay loại trà này nghe nói có cái hãng trà khỉ gió gì đó bên Tàu sáng chế ra một kiểu cách rất điệu nghệ khác. Cũng là trà vùng Động Đình Hồ, bây giờ bọn chúng không còn hái ôm vào ngực như cổ điển nữa mà chúng nó cho con gái còn trinh hái bằng mồm, dùng răng cắn ngắt búp chè, thả vào một cái giỏ tre kẹp giữa hai bầu vú, khi giỏ trà đầy thì đổ vào một bao vải thô, rồi quấn vào vùng bụng dưới, ướp hơi nóng của đan điền gái trinh qua một đêm cho búp trà héo mới đem sao.
- Tớ cũng nghe nói đến trà đó rồi, đang nhờ người đặt mua uống thử xem sao, ông đừng có nói là loại trà này đó nhé
- Đương nhiên là không phải, có đâu ra mà xịn thế- Tôi cười hề hề- Tuy không phải thứ đó, nhưng cũng là loại trà có cách thu hoạch đặc biệt. Loại trà này được hái bằng tay nhưng chỉ khác chun chút là chỉ có phụ nữ mới được hái, và mỗi lần hái được một nhúm vào lòng tay là phải đưa lên môi, hôn vào những cánh trà rồi mới được bỏ vào giỏ, vì vậy trà này mới được gọi là trà my my...hì hì..
- Xạo bà cố- Ba Đen biết tôi đùa nên cười xòa.
- Không xạo đâu, nếu không thế thì sao tao với mày đều có động tác giống hệt nhau khi mới giở gói trà này ra, đều nhẹ nhàng vốc một nhúm và nhẹ nhàng nâng mui đưa lên mũi ngửi he he...
- Ừ thi cứ coi như vậy đi, nhưng thứ trà này của vùng nào đấy
- Toronto- Canada
- Xạo nữa, mà vùng nào cũng kệ, nên giữ lấy nguồn trà này nhé
- Ừ, nhất định sẽ giữ
Cả tôi và Ba Đen đều lim dim mắt đưa tách trà lên môi nhâm nhi. Tôi vừa nhấp vừa tủm tỉm cuời. Ba Đen hỏi:
- Ông cười gì thế?
- Tớ đang nghĩ nên uống loại trà này vào loại ly nào thì hợp, và có nên nâng cấp nó lên thành một kiểu uống riêng, gọi là cách uống trà my my không?
- Nên lắm chứ, để cho người đời biết nhiều khi đặt môi lên một tách trà còn khoái cảm hơn nhiều lần đặt môi lên vòm thủy các của mỹ nhân...
23.05.11
TRÍCH Y SƯ THUẬN NGHĨA
'"
Hai cảnh giới cuối cùng là các cảnh giới thượng thừa của Trà Đạo đó là : "Cửu tùy. Thập không". Cảnh giới "cửu tùy" là cảnh giới thứ chín, người uống trà không còn lệ thuộc vào 8 cảnh giới trước nữa, mà nương tùy theo duyên trà mà cảm thụ được cái sự uống. Cảnh giới "Thập không" tức là cảnh giới thứ mười, uống như không uống, không uống vẫn như đang uống.
Mình nghiện uống trà mạn mộc (trà nguyên, không pha chế, không ướp hương) từ hồi mới mười mấy tuổi. Đến nay đã có gần 4 chục năm trải nghiệm. Và suốt gần 40 năm nay mình không uống một thứ nước gì khác ngoài nước trà. Vậy mà trầm trầy trầm trật mấy chục năm nay mới đạt đến cảnh giới thứ tám. Mặc dầu đã cố gắng hết sức vận rất nhiều năm công phu hàm dưỡng, mà vẫn chưa thấu ngộ được cảnh giới "Tùy" và "Không" ở trong Trà Đạo"
"Trà hôm nay không thơm như mọi khi, chát xốc, không đằm, nhưng màu xanh sánh, và dư vị, ngọt đậm hơn. Vừa nhấc quân cờ khai cuộc tôi vừa hỏi
- Trà xuân à?
- Ừ, trà vườn uống hết rồi, nhà chưa gửi kịp. Mà trà xuân sao lại đắng hơn nhỉ, dù không được nước, nhưng đằm ngọt ở lưỡi lâu hơn
- Vị của lửa là vậy mà. Tôi khề khà bâng quơ.
- Sao lại có chuyện lửa ở đây, sư phụ!
- Lộc trà xuân tàng ẩn Hỏa khí của mùa Hạ, nên chát khắt. Hỏa sinh thổ, nên sau vị chát của Hỏa thì dư vị của ngọt Thổ đằm lâu là đúng rồi, lửa dễ tắt chóng tàn. Trà xuân thâu tàng khí Hỏa nên không được nước là vậy.
- Vậy trà mùa nào uống ngon?
- Lộc trà mùa Thu, thì nồng vị Kim. Chỉ có trà thu hoạch vào mùa đông là chát dịu, hương dậy mà vị rất chung tình, đó là cái đặc điểm của lá trà ngậm khí Thủy, nếu vào dịp sương muối, lộc trà rúm quắt lại, thì uống càng phê.
Bích La Xuân, là loại trà Nhân Hương mà mình có mấy lần đã uống chứ gì. Ngày nay loại trà này nghe nói có cái hãng trà khỉ gió gì đó bên Tàu sáng chế ra một kiểu cách rất điệu nghệ khác. Cũng là trà vùng Động Đình Hồ, bây giờ bọn chúng không còn hái ôm vào ngực như cổ điển nữa mà chúng nó cho con gái còn trinh hái bằng mồm, dùng răng cắn ngắt búp chè, thả vào một cái giỏ tre kẹp giữa hai bầu vú, khi giỏ trà đầy thì đổ vào một bao vải thô, rồi quấn vào vùng bụng dưới, ướp hơi nóng của đan điền gái trinh qua một đêm cho búp trà héo mới đem sao.
- Tớ cũng nghe nói đến trà đó rồi, đang nhờ người đặt mua uống thử xem sao, ông đừng có nói là loại trà này đó nhé
- Đương nhiên là không phải, có đâu ra mà xịn thế- Tôi cười hề hề- Tuy không phải thứ đó, nhưng cũng là loại trà có cách thu hoạch đặc biệt. Loại trà này được hái bằng tay nhưng chỉ khác chun chút là chỉ có phụ nữ mới được hái, và mỗi lần hái được một nhúm vào lòng tay là phải đưa lên môi, hôn vào những cánh trà rồi mới được bỏ vào giỏ, vì vậy trà này mới được gọi là trà my my...hì hì..
- Xạo bà cố- Ba Đen biết tôi đùa nên cười xòa.
- Không xạo đâu, nếu không thế thì sao tao với mày đều có động tác giống hệt nhau khi mới giở gói trà này ra, đều nhẹ nhàng vốc một nhúm và nhẹ nhàng nâng mui đưa lên mũi ngửi he he...
- Ừ thi cứ coi như vậy đi, nhưng thứ trà này của vùng nào đấy
- Toronto- Canada
- Xạo nữa, mà vùng nào cũng kệ, nên giữ lấy nguồn trà này nhé
- Ừ, nhất định sẽ giữ
Cả tôi và Ba Đen đều lim dim mắt đưa tách trà lên môi nhâm nhi. Tôi vừa nhấp vừa tủm tỉm cuời. Ba Đen hỏi:
- Ông cười gì thế?
- Tớ đang nghĩ nên uống loại trà này vào loại ly nào thì hợp, và có nên nâng cấp nó lên thành một kiểu uống riêng, gọi là cách uống trà my my không?
- Nên lắm chứ, để cho người đời biết nhiều khi đặt môi lên một tách trà còn khoái cảm hơn nhiều lần đặt môi lên vòm thủy các của mỹ nhân...
23.05.11
TRÍCH Y SƯ THUẬN NGHĨA
'"
Tai ù
Bệnh về tai : như ù tai (Tinitus), viêm
tai giữa(Mitteohrenzündung), lãng tai v..v..So sánh với bảng Lục tự qui
nạp vào cơ thể thì Tai ứng với Chữ SUY trong lục tự quyết, vì vậy chọn
chữ SUY làm tâm điểm cho quá trình tập luyện. Khi đã biết chữ SUY là Tự
quyết trung tâm thì nên chọn vòng Lục tự tương sinh Vọng Nguyệt Tàng
Nguyên để luyện là tốt nhất, vòng lục tự tương sinh này thời gian thích
ứng cho thực hành là vào buổi tối như đã trình bày ở trên.
Quá trình thực hành tiết tự như sau:
Buổi tối, sau khi tắm gội sạch sẽ, áo quần rộng rãi thoải mái, tìm nơi
yên tĩnh, chọn tư thế ngồi thích hợp thả lỏng toàn thân, hai mắt nhắm
hờ, cổ ngay, lưng thẳng. Hít vào từ từ bằng mũi, đồng thời bụng hơi
phình ra, đặt sự chú ý lên đỉnh đầu để tạo cảm giác như có một luồng
thanh khí đi vào từ đây chứ không phải đi vào bằng mũi, hơi vào vừa đủ,
miệng chuẩn bị tư thế để phát âm chữ SUY, đồng thời ép bụng để tiết hơi
ra miệng, tư tưởng và sự chú ý hoàn toàn tập trung vào chữ SUY, hơi thở
được đẩy ra từ từ qua cấu trúc chữ SUY của vòm miệng ra ngoài, tư tưởng
suy nghĩ đang phát ra chữ SUY nhưng chỉ tồn tại trong Tiềm thức, chứ âm
hưởng không thực sự có thật. (Âm tự tồn tại và được phát ra trong tâm
thức chính là ở dạng tàng ẩn bên trong, cho nên mang tải sức chấn động
của Nội khí rất lớn).
Tiếp tục hơi thở vào như trước, rồi lần
lượt tiết tự chữ SUY theo nhịp thở như thường lệ, sau khi tiết tự chữ
SUY đủ 6 lần thì tiếp nối hơi thở để tiết tự chữ HU. Thứ tự lần lượt chữ
SUY 6 lần, HU 6 lần, chữ HƯ 6 lần, chữ HA 6 lần, chữ HÔ 6 lần, chữ HI 6
lần . Đến đây là kết thúc vòng 1 tức là vòng khởi động, không được dừng
lại làm gián đoạn nhịp thở mà phải liên tục tiếp nối nhịp thở tiết tự
của vòng 2.
Lại hít vào bằng mũi, tư tưởng tập trung
lên đỉnh đầu…..Thở ra, kèm theo việc tiết tự chữ SUY, vì chữ SUY là chữ
trung tâm đã chọn cho liệu pháp trị bệnh về Tai. Chữ SUY được thực hành
tiết tự 18 lần liên tục, đến đây là kết thúc vòng 2 tức là vòng hoạt
hóa, cũng có nghĩa là vòng chủ chốt để trị bệnh.
Tiếp tục nhịp thở tiết tự của vòng 3,
lại bắt đầu từ chữ SUY, nhưng mỗi tự quyết thực hiện đến 12 lần theo thứ
tự sau: chữ SUY 12 lần, chữ HU 12 lần, chữ HƯ 12 lần, chữ HA 12 lần,
chữ HÔ 12 lần, HI 12 lần. Đến đây là kết thúc một buổi thực hành tiết
tự.
Vì điều kiện thời gian bó buộc không thể
luyện tập vào buổi tối để thực hành vòng lục tự tương sinh Vọng nguyệt
tàng nguyên ( là vòng Tự quyết để trị bệnh về Tai thích hợp nhất), thì
chọn thời gian khác, với vòng Lục tự khác vẫn đạt được hiệu quả tốt. Nếu
thời gian luyện tập vào buổi sáng thì như đã trình bày ở trên, chọn
vòng lục tự Nhật khởi-Đông khai và trình tự luyện tập như sau: Chữ HƯ 6
lần, chữ HA 6 lần, chữ HÔ 6 lần, chữ HI 6 lần, chữ SUY 6 lần, chữ HU 6
lần, chữ SUY 18 lần, chữ HƯ 12 lần, chữ HA 12 lần, chữ HÔ 12 lần, chữ HI
12 lần, chữ SUY 12 lần, chữ HU 12 lần.
Nếu thời gian luyện tập vào xế trưa thì
chọn vòng Ngũ trung đại hóa, trình tự luyện tập như sau: Chữ HÔ 6 lần,
chữ HI 6 lần, chữ SUY 6 lần, chữ HU 6 lần, chữ HƯ 6 lần, chữ HA 6 lần,
chữ SUY 18 lần, chữ HÔ 12 lần, chữ HI à 12 lần, chữ SUY 12 lần, chữ HU
12 lần, chữ HƯ 12 lần, chữ HA 12 lần.
Sưu Tầm Và Biên Soạn
Quảng Nhẫn Lê Thuận Nghĩa
Quảng Nhẫn Lê Thuận Nghĩa
Bệnh về mắt
Bệnh Về Mắt:
Bạn đang bị bệnh về mắt, đã qua nhiều liệu trình điều trị, mà chưa có kết quả khả quan. Xin bạn hảy bớt chút thời gian, mỗi ngày chỉ cần độ 30 phút dành cho việc luyện tập LTKC, đảm bảo với bạn sau 2 tuần Mắt bạn sẽ có chuyển biến tốt. Sau 1 tháng đến 40 ngày, chắc chắn kết quả sẽ làm cho bạn rất hài lòng.
Bạn vào trang 4 trong Blog của tôi, ở category : Chung sẽ tìm thấy 3 chương viết về cách luyện tập Lục Tự Khí Công. Bạn đọc và nghiên cứu trước sau đó làm theo hướng dẫn sau:
Chữa Bệnh Về Mắt Bằng Lục Tự Quyết:
Chữa trị các bệnh về mắt như Cận thị, Viễn thị, Loạn thị, Mù màu, Thoái hóa võng mạc, Viêm hoàng điểm v..v..So sánh với bảng Lục tự qui nạp vào cơ thể thì Mắt ứng với Chữ HƯ trong lục tự quyết, vì vậy chọn chữ HƯ làm tâm điểm cho quá trình tập luyện. Khi đã biết chữ HƯ là Tự quyết trung tâm thì nên chọn vòng Lục tự tương sinh Nhật Khởi Đông Khai để luyện là tốt nhất, vòng lục tự tương sinh này thời gian thích ứng cho thực hành là vào buổi sáng. Quá trình thực hành tiết tự như sau:
Buổi sáng, sau khi vệ sinh cá nhân sạch sẽ, áo quần rộng rãi thoải mái, tìm nơi yên tĩnh, chọn tư thế ngồi thích hợp thả lỏng toàn thân, hai mắt nhắm hờ, cổ ngay, lưng thẳng. Hít vào từ từ bằng mũi, đồng thời bụng hơi phình ra, đặt sự chú ý lên đỉnh đầu để tạo cảm giác như có một luồng thanh khí đi vào từ đây chứ không phải đi vào bằng mũi, hơi vào vừa đủ, miệng chuẩn bị tư thế để phát âm chữ HƯ(xem cách phát âm ở phần Lục Tự Khí Công), đồng thời ép bụng để tiết hơi ra miệng, tư tưởng và sự chú ý hoàn toàn tập trung vào chữ HƯ, hơi thở được đẩy ra từ từ qua cấu trúc chữ HƯ của vòm miệng ra ngoài, tư tưởng suy nghĩ đang phát ra chữ HƯ nhưng chỉ tồn tại trong Tiềm thức, chứ âm hưởng không thực sự có thật. (Âm tự tồn tại và được phát ra trong tâm thức chính là ở dạng tàng ẩn bên trong, cho nên mang tải sức chấn động của Nội khí rất lớn) .Tiếp tục hơi thở vào như trước, rồi lần lượt tiết tự các Tự Quyết tiếp, theo nhịp thở như thường lệ, sau khi tiết tự chữ HƯ đủ 6 lần thì tiếp nối hơi thở để tiết tự chữ HA. Thứ tự lần lượt chữ HƯ 6 lần ,chữ HA 6 lầnà chữ HÔ 6 lần à chữ HI 6 lần à chữ SUY 6 lần à chữ HU 6 lần . Đến đây là kết thúc vòng 1 tức là vòng khởi động, không được dừng lại làm gián đoạn nhịp thở mà phải liên tục tiếp nối nhịp thở tiết tự của vòng 2. Lại hít vào bằng mũi, tư tưởng tập trung lên đỉnh đầu.....Thở ra, kèm theo việc tiết tự chữ HƯ, vì chữ HƯ là chữ trung tâm đã chọn cho liệu pháp trị bệnh về Mắt. Chữ HƯ được thực hành tiết tự 18 lần liên tục, đến đây là kết thúc vòng 2 tức là vòng hoạt hóa, cũng có nghĩa là vòng chủ chốt để trị bệnh. Tiếp tục nhịp thở tiết tự của vòng 3, lại bắt đầu từ chữ HƯ, nhưng mỗi tự quyết thực hiện đến 12 lần theo thứ tự sau: chữ HƯ 12 lầnà chữ HA 12 lần à chữ HÔ 12 lần àchữ HI 12 lần à chữ SUY 12 lần à HU 12 lần. Đến đây là kết thúc một buổi thực hành tiết tự.
Tóm lại quá trình luyện tập cho một lần vòng lục tự Nhật khởi-Đông khai để trị bệnh, bằng 126 hơi thở tiết tự như sau : Chữ HƯ 6 lầnàchữ HA 6 lầnàchữ HÔ 6 lầnàchữ HI 6 lầnàchữ SUY 6 lầnàchữ HU 6 lần è chữ HƯ 18 lần è chữ HƯ 12 lầnà chữ HA 12 lần à chữ HÔ 12 lần à chữ HI 12 lần à chữ SUY 12 lầnà chữ HU 12 lần. Hết
Đồng thời với việc luyện tập vòng Nhật Khởi Đông Khai. Bạn nên hàng ngày uống thêm Trà Kỷ Tử nữa thì càng tốt. Hạt Câu Kỷ Tử ở bất kỳ tiệm thuốc Bắc nào cũng có bán. Bạn cho khoảng 2 thìa canh đầy hạt Câu Kỷ Tử vào một bình thủy, rồi đổ vào khoảng 1 lít nước sôi. Uống trong ngày như uống nước giải khát.
Thực hiện đúng liệu trình này bảo đảm sau một thời gian 1 tháng mắt bạn sẽ tốt lên. Sau khoảng 4 đến 6 tháng thực hành LTKC. Chắc chắn cái kiếng dày như đít chai của Bạn chỉ còn là một kỷ vật.
Chúc bạn thành công.
Bạn đang bị bệnh về mắt, đã qua nhiều liệu trình điều trị, mà chưa có kết quả khả quan. Xin bạn hảy bớt chút thời gian, mỗi ngày chỉ cần độ 30 phút dành cho việc luyện tập LTKC, đảm bảo với bạn sau 2 tuần Mắt bạn sẽ có chuyển biến tốt. Sau 1 tháng đến 40 ngày, chắc chắn kết quả sẽ làm cho bạn rất hài lòng.
Bạn vào trang 4 trong Blog của tôi, ở category : Chung sẽ tìm thấy 3 chương viết về cách luyện tập Lục Tự Khí Công. Bạn đọc và nghiên cứu trước sau đó làm theo hướng dẫn sau:
Chữa Bệnh Về Mắt Bằng Lục Tự Quyết:
Chữa trị các bệnh về mắt như Cận thị, Viễn thị, Loạn thị, Mù màu, Thoái hóa võng mạc, Viêm hoàng điểm v..v..So sánh với bảng Lục tự qui nạp vào cơ thể thì Mắt ứng với Chữ HƯ trong lục tự quyết, vì vậy chọn chữ HƯ làm tâm điểm cho quá trình tập luyện. Khi đã biết chữ HƯ là Tự quyết trung tâm thì nên chọn vòng Lục tự tương sinh Nhật Khởi Đông Khai để luyện là tốt nhất, vòng lục tự tương sinh này thời gian thích ứng cho thực hành là vào buổi sáng. Quá trình thực hành tiết tự như sau:
Buổi sáng, sau khi vệ sinh cá nhân sạch sẽ, áo quần rộng rãi thoải mái, tìm nơi yên tĩnh, chọn tư thế ngồi thích hợp thả lỏng toàn thân, hai mắt nhắm hờ, cổ ngay, lưng thẳng. Hít vào từ từ bằng mũi, đồng thời bụng hơi phình ra, đặt sự chú ý lên đỉnh đầu để tạo cảm giác như có một luồng thanh khí đi vào từ đây chứ không phải đi vào bằng mũi, hơi vào vừa đủ, miệng chuẩn bị tư thế để phát âm chữ HƯ(xem cách phát âm ở phần Lục Tự Khí Công), đồng thời ép bụng để tiết hơi ra miệng, tư tưởng và sự chú ý hoàn toàn tập trung vào chữ HƯ, hơi thở được đẩy ra từ từ qua cấu trúc chữ HƯ của vòm miệng ra ngoài, tư tưởng suy nghĩ đang phát ra chữ HƯ nhưng chỉ tồn tại trong Tiềm thức, chứ âm hưởng không thực sự có thật. (Âm tự tồn tại và được phát ra trong tâm thức chính là ở dạng tàng ẩn bên trong, cho nên mang tải sức chấn động của Nội khí rất lớn) .Tiếp tục hơi thở vào như trước, rồi lần lượt tiết tự các Tự Quyết tiếp, theo nhịp thở như thường lệ, sau khi tiết tự chữ HƯ đủ 6 lần thì tiếp nối hơi thở để tiết tự chữ HA. Thứ tự lần lượt chữ HƯ 6 lần ,chữ HA 6 lầnà chữ HÔ 6 lần à chữ HI 6 lần à chữ SUY 6 lần à chữ HU 6 lần . Đến đây là kết thúc vòng 1 tức là vòng khởi động, không được dừng lại làm gián đoạn nhịp thở mà phải liên tục tiếp nối nhịp thở tiết tự của vòng 2. Lại hít vào bằng mũi, tư tưởng tập trung lên đỉnh đầu.....Thở ra, kèm theo việc tiết tự chữ HƯ, vì chữ HƯ là chữ trung tâm đã chọn cho liệu pháp trị bệnh về Mắt. Chữ HƯ được thực hành tiết tự 18 lần liên tục, đến đây là kết thúc vòng 2 tức là vòng hoạt hóa, cũng có nghĩa là vòng chủ chốt để trị bệnh. Tiếp tục nhịp thở tiết tự của vòng 3, lại bắt đầu từ chữ HƯ, nhưng mỗi tự quyết thực hiện đến 12 lần theo thứ tự sau: chữ HƯ 12 lầnà chữ HA 12 lần à chữ HÔ 12 lần àchữ HI 12 lần à chữ SUY 12 lần à HU 12 lần. Đến đây là kết thúc một buổi thực hành tiết tự.
Tóm lại quá trình luyện tập cho một lần vòng lục tự Nhật khởi-Đông khai để trị bệnh, bằng 126 hơi thở tiết tự như sau : Chữ HƯ 6 lầnàchữ HA 6 lầnàchữ HÔ 6 lầnàchữ HI 6 lầnàchữ SUY 6 lầnàchữ HU 6 lần è chữ HƯ 18 lần è chữ HƯ 12 lầnà chữ HA 12 lần à chữ HÔ 12 lần à chữ HI 12 lần à chữ SUY 12 lầnà chữ HU 12 lần. Hết
Đồng thời với việc luyện tập vòng Nhật Khởi Đông Khai. Bạn nên hàng ngày uống thêm Trà Kỷ Tử nữa thì càng tốt. Hạt Câu Kỷ Tử ở bất kỳ tiệm thuốc Bắc nào cũng có bán. Bạn cho khoảng 2 thìa canh đầy hạt Câu Kỷ Tử vào một bình thủy, rồi đổ vào khoảng 1 lít nước sôi. Uống trong ngày như uống nước giải khát.
Thực hiện đúng liệu trình này bảo đảm sau một thời gian 1 tháng mắt bạn sẽ tốt lên. Sau khoảng 4 đến 6 tháng thực hành LTKC. Chắc chắn cái kiếng dày như đít chai của Bạn chỉ còn là một kỷ vật.
Chúc bạn thành công.
Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014
LÝ GIẢI MỘT TOA THUỐC BÍ TRUYỀN TRỊ BỆNH HUYẾT ÁP CAO
Nội dung toa thuốc như sau:
- Bạch hồ tiêu(hạt tiêutrắng) -------7 hạt
- Gạo nếp --------------------------- 7 hạt
- Hạnh nhân --------------------- ----10 gr
- Chi tử --------------------------------7 gr
- Đào nhân ----------------------------7 gr
Nghiền lẫn 5 vị trên thành bột, dùng trứng gà nhào thành bánh, trước khi đi ngủ đắp vào lòng bàn chân (nam bên trái, nữ bên phải). Xong dùng vải thô bọc chặt lại. Ngày hôm sau gỡ ra, biến thành màu xanh là tác dụng trị bệnh có hiệu quả. Người bệnh nặng làm 3 lần liên tục trong 3 ngày, người bệnh nhẹ 2 lần.
Khi người đồng nghiệp, đưa phương toa về, muốn ứng dụng ngay. Nhìn qua phương toa, thấy các vị thuốc có tính độc, tác dụng thanh nhiệt, hạ hoả , phá huyết, hành ứ, chủ yếu có tác dụng đi vào hai kinh Can và Tâm. Tôi hơi ngần ngại, vì nếu bệnh nhân huyết áp cao có nguyên nhân từ Thận hư, thì toa thuốc này không có lợi. Nhưng phương toa chỉ đắp ngoài mức độ ảnh hưởng của vị độc không đáng ngại, vì vậy tôi cũng đồng ý dùng thử, nhưng chỉ với bệnh nhân có lựa chọn, chống chỉ định do nguyên nhân từ Thận hư.
Điều trị trên một bệnh nhân đang dùng thuốc hàng ngày, ngày thứ nhất, vẫn dùng thuốc, ngày thứ hai cho ngưng thuốc, qua khỏi ngày thứ 3, tình trạng áp suất máu rất ổn định, chỉ số áp suất 135/ 90( trước đó lúc có uống thuốc chỉ số là 145/95). Sau một tuần không uống thuốc, chỉ số áp suất máu vẫn ổn định, bệnh nhân không còn đau đầu, chóng mặt và mất ngủ như trước nữa. Sau 3 tuần , có hiện tượng áp suất máu lại tăng, chúng tôi áp dụng một liệu trình nữa, từ đó về sau, tình trạng luôn ổn định.
Thử nghiệm trên một bệnh nhân, đã trải qua một lần bị tai biến mạch máu nhẹ, đang sử dụng các loại thuốc tây chống áp suất máu cao, và thuốc làm loãng máu. Bệnh nhân này do xơ cứng động mạch, trong máu có mỡ, và có rất nhiều áp lực thần kinh từ công việc, liệu trình thứ nhất, áp suất máu vẫn không thay đổi khả quan, nhưng bệnh nhân giảm đau đầu, và ngủ được, không còn đau vùng cổ gáy nữa. Liệu trình thứ 2, chúng tôi áp dụng cả luyện tập tĩnh công (Lục Tự Khí Công), và tự day bấm huyệt , thì tình trạng huyết áp giảm dần, qua một thời gian, không dùng thuốc, áp suất máu vẫn ở chỉ số an toàn cho phép, duy chỉ có bệnh nhân vẫn dùng thuốc loãng máu, vì đó là chỉ định của chuyên môn, chúng tôi không được phép khuyên bệnh nhân bỏ uống thuốc này.
Nói tóm lại qua thời gian thử nghiệm, phân tích và nghiên cứu, chúng tôi thấy toa thuốc có tác dụng tốt, trong việc kết hợp trị bệnh huyết áp cao. Nhưng với bệnh nhân có nguyên nhân về suy chức năng tim, và suy thận nặng thì không có tác dụng. Đặc biệt bệnh nhân suy thận, có xu thế không an toàn. Đối với nguyên nhân do rối loạn hóc môn tuyến thượng thận, và tuyến giáp trạng, thì xác suất ổn định chỉ chiếm 50% tuỳ bệnh chứng.
Đối với nguyên nhân do stress, áp lực thần kinh, và nguyên nhân từ sự điều tiết của gan thì có tác dụng rất hữu hiệu. Đặc biệt, tuỳ bệnh chứng và thể trạng cơ thể mổi tháng sử dụng phương toa này từ 1 đến 2 lần( có nghĩa chỉ đắp 1 hoặc 2 lần)
kết hợp với 1 vài động tác đơn giản day bấm huyệt (tôi sẽ cập nhật trong nay mai), thì khả năng xảy ra đột quị rất thấp (hầu như không bị)
Vì vậy việc lý giải Toa thuốc chống Huyết áp cao này cũng nghiêng nặng về y lý cổ truyền, chứ không nặng về Y học thực dụng.
1) Nguyên nhân gây nên bệnh Huyết áp cao:
a) Theo y học hiện đại:
- Nguyên nhân thường gặp nhất là mạch máu bị nghẽn hẹp, do xơ vữa hoặc kết mỡ
- Rối loạn chức năng hệ thống tuần hoàn, mà nguyên nhân có từ suy chức năng của Tim
- Do áp lực thần kinh quá tải
- Nhiễm trùng, nhiễm độc
- Rối loạn Hóc môn - Dị ứng
- Và rất nhiều nguyên nhân có từ việc sai lầm trong chế độ ăn uống
Những triệu chứng thường gặp : Đau đầu, chóng mặt , ù tai hồi hộp, nóng nảy bất an, bồn chồn lo lắng , mất ngủ, đau vùng vai gáy v..v..
b) Theo y lý cổ truyền : - Khí hư ở Tâm Kinh và Phế Kinh
- Huyết thực ở Can kinh
- Khí huyết uất trệ ở Tỳ vị
- Rối loạn tam tiêu
- Thận âm hư
- Can Thận bất túc
- Thủy-Hỏa vị tế
2) Các vị thuốc trong toa:
a) Bạch Hồ Tiêu ( tiêu sọ, hột tiêu chín , phơi khô , xát vỏ ngoài):
- Hồ tiêu còn có tên gọi là Hạt tiêu, Cổ Nguyệt, Bạch cổ nguyệt (tiêu trắng), Hắc cổ nguyệt (tiêu đen)
- Tên khoa học Piper, thuộc họ hồ tiêu
- Xuất xứ từ nước Hồ , chữ Hồ theo cách đọc Hán ngữ là là do chữ Cổ và chữ Nguyệt ghép lại nên mới có tên Cổ Nguyệt ( tôi có đọc một câu thơ của một tác giả hiện đại viết rằng : em như vầng cổ nguyệt trong tôi - có nghĩa là em như một nắm tiêu trong tôi- chắc cay chết- hì hì )
- Bạch hồ tiêu (tiêu sọ) là loại tiêu hái vào lúc quả đã thật chín, sau đó chà sạch vỏ ngoài, sau đó ngâm xuống nước từ 3 đến 4 ngày, chà sạch vỏ đen lần nữa, loại này có màu trắng ngà, xám, ít nhăn nheo, ít thơm nhưng cay hơn.
- Tác dụng dược lý: Dùng liều nhỏ tăng dịch vị, dịch tụy, kích thích tiêu hóa, nhưng dùng liều lớn có thể làm tổn hại niêm mạc dạ dày, gây sưng huyết và viêm cục bộ, gây sốt, viêm đường tiểu tiện, đi đái ra máu ( vì vậy mà lần đầu tôi ngần ngại cho bệnh nhân HAC có nguyên nhân từ Thận hư là vậy). Ngoài ra Hồ tiêu còn có tác dụng trong các toa thuốc làm giảm đau nhức, như đau răng, đau bụng...
b) Hạnh nhân:
Còn có tên gọi Nam hạnh nhân, khổ hạnh nhân, Ô mai, Mơ, má pheng ( Thái), tên khoa học Prunus amenica, thuộc họ hoa hồng
Hạnh nhân tính hơi độc, tác dụng vào hai kinh tâm và phế, có tác dụng trấn an thần kinh, chữa ho, khó thở nôn mửa, đau dạ dày, nhuận tràng, trừ đờm...
Dược thảo ở nước ta không có vị hạnh nhân, mà thường dùng Đào nhân
c) Đào nhân :
Tên khoa học là Prumus peica, thuôc họ hoa hồng
Theo tài liệu cổ, Đào nhân có vị đắng ngọt, tính bình vào hai kinh Tâm và Can, có tác dụng phá huyết hành ứ, nhuận táo, hoạt trường, dùng chữa huyết ứ, chữa ho làm tiêu những chất ở bụng dưới, sát trùng, thanh nhiệt.
d) Chi tử:
Còn có tên gọi là Dành dành, Sơn chi tử, thuộc họ cà phê
Chi tử là quả Dành Dành chín phơi hay sấy khô.( Chi là chén đựng rượu, tử là quả hay hạt, vì quả dành dành giống cái chén đựng rượu ngày xưa, nên gọi là chi tử)
- Chi tử được dùng từ lâu trong đông y, theo tài liệu cổ, Chi tử có vị đắng, tính hàn vào 3 kinh, tâm phế và tam tiêu, có tác dụng tả hỏa, lợi tiểu, cầm máu, dùng cho những người sốt, bồn chồn khó ngủ, miệng khát họng đau, mắt đỏ da vàng, tiểu tiện khó khăn, thổ huyết, máu cam, lỵ ra máu, tiểu tiện ra máu....
Nhìn qua thành phần của Toa chúng ta thấy, hạt nếp chỉ là chất dính kết, và có tính bình vị thuốc, Hạnh nhân và Đào nhân có tác dụng gần giống nhau, như vậy toa thuốc chủ về ba vị chính Bạch hồ tiêu, Hạnh và Đào nhân và Chi tử . Cả ba vị đều có dược tính đi vào 3 kinh chính là Gan, Thận, và Tâm, ngoài ra còn trực tiếp ảnh hưởng đến Tam tiêu, và phế. Và đều có tác dụng hành huyết, khu ứ, thông khí, thanh nhiệt, hạ hỏa....Đó là những đặc điểm yêu cầu của dược liệu để dập tắt những triệu chứng vốn có của bệnh Huyết áp cao. Về đặc tính của phương toa, đây là một toa nặng về Phép Tả, không có tính chất bồi bổ ( Bá đạo).
Điểm cần làm sáng tỏ của Phương toa này, là tại vì sao phải đắp ở lòng bàn chân, và việc đắp chân tả (trái) cho nam giới, chân hửu (phải) cho nữ giới có ý nghĩa gì trong phương toa. Và điểm quan trọng tối hậu là tại vì sao có người khỏi bệnh rất nhanh, có người lại cầm chừng, và đôi khi lại có xu thế xấu đi. Và tại vì sao phương toa này kết hợp với một vài động tác day bấm huyệt đơn giản lại có khả năng phòng chống đột quị (tai biến mạch máu não) rất cao.
Muốn làm sáng tỏ những vấn đề, chúng ta cần phải hiểu sơ bộ, những nguyên nhân gây nên bệnh Huyết áo cao theo y lý Đông phương.
Như đã trình bày trên nguyên nhân gây nên bệnh áp suất máu cao là do 7 nguyên nhân chủ yếu, và qui tụ về 4 cơ quan nội tạng, đó là Tim, Gan, Thận, và Tam tiêu
Ta thử tìm hiểu những bệnh chứng trên xem sao.
- Một trong những nguyên nhân hàng đầu gây nên bệnh này là Thận suy, mà chủ yếu là Thận Âm suy (nguyên nhân làm cho suy chức năng thận là do viêm, nhiễm hoặc hoạt động tình dục quá độ).
Thận là nguồn gốc của thiên nhiên Thuộc hành Thủy. Công năng chủ yếu là tàng nạp tinh khí, và là Nguyên Âm, Nguyên Dương của Cơ thể, cho nên Thận chỉ tàng trữ chứ khhông được phép hao tán. Thận bên trái là Chân Dương (tả thận). Thận bên phải là Chân Âm ( hữu thận), còn Mệnh môn thì ở giữa.
Thận âm hư có các triệu chứng sau. Đầu choáng váng, hoa mắt ù tai, mất ngủ, mồ hôi trộm, đau lưng mỏi gối, tâm phiền nhiệt, di hoạt tinh, Xích mạch tế sác, có thể liên hệ đến chứng thần kinh suy nhược ( cách chữa tư dưỡng hữu thận dùng toa Lục vị hoàn, hoặc bát vị tri bá). Thận âm hư cho nên không có đầy đủ chân khí, để hoạt khí khắp châu thân, không vận dụng được thủy khí để đưa lên dập tắt Tâm hỏa uất vượng mà sinh ra cuồng nhiệt, tổn hại đến Kinh mạch, đó là nguyên nhân gây nên chứng Hỏa Vượng ( huyết áp cao). Hư thì phải bổ đó là cái lý đương nhiên của Y đạo. Nhưng toa thuốc trên không có tác dụng bồi bổ thận âm. Cho nên những người mắc bệnh huyết áp cao từ nguyên nhân này, toa thuốc trên không có hiệu quả là vậy. Cho nên chúng ta phải cẩn trọng trong việc dụng toa. Thông thường những người huyết áp cao có từ nguyên nhân này, có triệu chứng, tình trạng áp suất máu trồi sụt thất thường, và không phải là những người béo phì, và có tâm tính không cuồng nhiệt, hay bứt rứt ưu phiền, và tự ty.
Hầu hết những triệu chứng thoát hiện ra bề ngoài mà dễ nhận biết của bệnh HAC ( Huyết áp cao), đều do nguyên nhân từ chứng Hỏa Vượng ( khí nóng như thiêu đốt bốc lên đầu. Chứng này do Hỏa tà ( Tâm hỏa ) và Can hỏa gây nên. Có chứng này là do các nguyên nhân sau:
* Chứng Tâm Thận Bất Giao: ( Thủy hỏa vị tế). Tâm (tim) thuộc hỏa, thận thuộc thủy, Thủy cần thăng lên, Hỏa cần giáng xuống, để thủy hỏa giao lưu ký tế, nhưng do thủy suy hỏa vượng, không thông với nhau thành chứng tâm thận bất giao, triệu chứng là đầu choáng váng, mất ngủ chóng quên, ù tai hoa mắt, tâm phiền bứt rứt, đau lưng mỏi gối ( Phép chữa : dưỡng tâm thận , dùng toa Giao thái Hoàn, tức là toa Lục vị gia Táo nhân, Bán hạ và ngũ vị )
* Chứng Can Hỏa Vọng Động: Tức là gan bị bệnh trì trệ huyết ứ gây nên triệu chứng, đau đầu hoa mắt, chóng mặt, mặt và mắt đỏ, đau tức hai bên hông sườn, nóng, sốt ruột, mạch huyền.( cách trị : Dùng bài Tả Thanh Thang, nếu có chứng viêm gan thì dùng toa Long Đởm Tả Can Thang.
* Còn có chứng phụ, là do Thận thủy suy kiệt, không tư nhuận được can mộc ( Thủy sinh Mộc) gây nên triệu chứng mắt tối sầm, đầu thỉnh thoảng nhức từng cơn, hoa mắt chóng mặt, đau nhói sườn ( phép chữa Bổ thận thủy với toa Lục Vị Qui Thược)
* Chứng Hỏa Thịnh Tại Thượng Tiêu Và Trung Tiêu. Chứng này do nhiệt tà uất kế tại tam tiêu mà gây nên. Gây nên đốt nóng tam tiêu làm bế tắc thủy đạo, Khí thủy không thăng lên được mà chế ngự hỏa Tà ´
* Chứng Can Khí Uất Kết: Gan chủ về sự điều tiết máu huyết trong cơ thể, nếu Gan bị bệnh, do viêm nhiễm, hay quá tải do làm việc nhiều, như ăn uống nhiều chất mỡ, bia rượu, thuốc lá, dùng quá nhiều hoá dược v..v..sẽ gây nên chứng khí huyết uất kết trì trệ ở gan, chứng này có các triệu chứng hay giận dữ, nhức đầu, đau hông sườn, nếu can khí thăng phát thái quá, can hoả thăng lên, gây ra đau đầu choáng váng, nếu can dương hoả thịnh, thì đau đầu kịch liệt, mắt đỏ ù tai. Nếu như can hoả đạt đến cực thịnh thì gây nên chứng phong hoả ( đột quị)
Chỉ sơ điểm một vài nguyên nhân chủ yếu như vậy, để chứng tỏ hầu hết các nguyên nhân của chứng HAC đều do chứng Hoả Vượng mà thành. Hoả Tà là Tâm Hoả vọng động do tim suy không kiềm chế được khí hoả, để hoả khí bốc lên, mà nung đốt cả châu thân. Trong khi Khí Thận Thuỷ, không có năng lực thăng lên để hoá giải( Thận Hư). Loạn Hoả là do gan mất khả năng điều tiết, nên Khí Dương Mộc của Gan bốc lên mà đốt thành Loạn Hoả (Do thuỷ Thận không tu dưỡng được Mộc Gan mà nên). Tam tiêu bế tắc, Khí thuỷ không lưu thông, làm cho khí hoả không bị kiềm chế mà nung đốt thượng tiêu và trung tiêu đó là chứng Hoả Tặc, do thuỷ khí (thận) không được thanh khiết, mà đưa thuỷ khí ô trược lên mà thành chứng bế tắc.
Lập phương hầu hết là các vị hoạt huyết, khu ứ, thông trọc và thanh nhiệt..., lại đắp ở dưới lòng bàn chân đó chính là diệu pháp của phương toa này. Hiểu nôm na là phương toa này như đem củi mà đốt dưới đáy nồi, cho hơi nước (thuỷ khí) bốc lên, để dập tắt 3 thứ Hoả đang hoành hoành ở phía trên ( Hoả Tà, Loạn Hoả và Hoả Tặc ). Đó là phép dụng thuốc cực kỳ linh hoạt, và táo bạo một cách huyền vi, là dùng Hoả Dược, đế dập tắt Hoả Khí. Thật là tài tình. Các dược thảo có tính nung đốt : Bạch hồ tiêu, Hạnh nhân, Đào nhân, được dược tính thanh tảo của Chi tử phò tá, được đặt vào nơi mà Khí Thuỷ ngưng kết là lòng bàn chân, và cũng là nơi có Huyệt Dũng Tuyền là khởi đầu của Thận Kinh, Thủ pháp này như nung cho kết thuỷ tan loãng ra và thăng tán theo Thận kinh kéo theo Chân Thuỷ như một cơn lốc xoáy vút lên cao mà để phá tan khí Hoả từ trong lòng của đám cháy.
Nếu ta ví như chứng Hoả Vượng(HAC) như một đám cháy. Nếu dùng dược thảo có tính Hàn để bình thảo nó, nếu đám cháy quá lớn, thì dược thảo đưa vào đôi khi chỉ như xô nước nhỏ khó có thể dập tắt nổi. Phương toa trên đã khắc chế được nhược điểm đó, là như một tiếng nổ ở trung tâm đám cháy làm cho Lửa không có điểm gốc để mà bám tựa bùng phát nữa.
Đó cũng là đặc điểm ưu việt của phương toa này, Khi thuỷ khí được đột ngột ào ào thông tán lên cao, cuồn cuộn như thác lũ đã cuốn phăng mọi chướng ngại, bế tắc trên thuỷ đạo của Tam tiêu, như một dòng sông đã được nạo vét, từ đó mà thuỷ khí được dễ dàng lưu thông, Thuỷ khí được lưu thông nên từ đó về sau có đủ để kiềm chế thượng Hoả. Đó là cái lý vì sao chỉ dụng toa có vài lần mà đã bình được bệnh là vậy.
Nhưng tại vì sao lại có người lại không khỏi bệnh, mà còn có xu hướng xấu thêm. Đó là vì Thận âm suy nhược, Thuỷ Khí đã cạn kiệt. Không có nước, thì có đốt bao nhiêu, lấy nước đâu mà bốc hơi. Vì vậy đối với người có Thận âm suy hư nặng, thì chưa nên dùng toa này vội ( xem chứng Thận âm suy ở phía trên). Mà trước nên tu dưỡng bồi bổ Thận Âm, làm cho Khí Thuỷ thịnh vượng lên, khi thuỷ khí đầy đủ hãy dụng toa ( Đổ nước vào nồi trước rồi mới đun- dụng toa). Thì toa này mới công hiệu với những người bị suy thận được. ( muốn tu dưỡng Thận âm nên dụng toa Lục Vị Hoàn: Thục địa 32 gam, Hoài sơn 16 gam, Sơn thù 16 gam, Bạch linh 12 gam, Đan bì 12 gam, Trạch tả 12 gam. Hoặc là dụng toa Lục Vị Tri Bá tức là toa Lục vị Hoàn gia thêm tri mẫu 12 gam, Hoàng bá 12)
Còn vì sao lại là Nam đắp chân trái, nữ đắp chân phải. Đó là tuân Y lý Âm- Dương, Nam là dương, Nữ là âm. Trên cơ thể con người phía trái là Dương, phía phải là Âm, Nam đắp chân trái là thuận Dương mà hành khí, Nữ đắp chân phải là Thuận Âm mà hành khí. Đó là cũng là sự vi diệu của Y lý Đông phương vậy.
Như vậy là những điểm cốt yếu của Phương toa này đã được lý giải. Phương toa đơn giản, nhưng hiệu quả là thiết thực, bởi cách lập phương toa quá huyền vi mà thành.
Một điểm lưu ý nữa, trong phương toa này còn có một sự vi diệu nào đó mà không thể lý giải được. Đó là sự kết hợp giữa các vị thuốc này còn có một bí mật rất huyền kỳ mà ta chưa biết và rất khó giải thích. Vì khi chúng tôi sử dụng dược thảo có tính năng tương tự, đôi khi lại có tính nung đốt cao hơn để thay đổi một vị, thử xem sao, thì phương toa vẫn có hiệu quả, nhưng không tốt bằng phương cũ. Vì vậy lúc dụng toa, mong quí vị không nên thay đổi thành phần và lượng toa. Cứ giữ đúng như Toa nguyên bản mà làm.
Tóm lại đây là một toa thuốc quí, có độ tin cậy cao, đã qua thử nghiệm và phân tích nghiên cứu, có thể sử dụng để trị bệnh huyết áp cao và phòng chống đột quị, Chỉ nên lưu ý bệnh nhân nào có triệu chứng Thận suy, thì nên bồi bổ Thận âm cho khí thận thuỷ đầy đủ hãy dụng toa thì mới có kết quả.
Chúng tôi là hậu bối, tài học còn thô thiển, cho nên trong khi lý giải Toa thuốc, vẫn còn có nhiều khiếm khuyết. Mong quí vị Tôn sư, các bậc lão thành, trưởng thượng trong nghề, ai có ý kiến khác, mong quí vị chỉ giáo. Một vài lời góp ý của Quí vị đối với chúng tôi là bể học vô giá., đối với bệnh nhân là ân đức vô lượng.
Cúi đầu đa tạ.
Thanh Long Quảng Nhẫn Lê Thuận Nghĩa
BẠI LIỆT PHƯƠNG PHÁP THAM KHẢO
NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP
(Thuận Nghĩa)
Bệnh nhân bị bại liệt sau đột quị có rất nhiều tình trạng khác nhau, tôi tạm thời chia thành 3 tình trạng chính
1) Bệnh nhân bị liệt nửa người hoàn toàn, không có khả năng vận động, ít có cảm giác ở tay chân, trí nhớ không còn minh mẫn, ăn uống và sinh hoạt cá nhân không tự chủ được. Đây là trường hợp nếu muốn điều trị, cần phải có sự có mặt trực tiếp của chuyên viên điều trị, tình trạng này khó phục hồi, vì bệnh nhân đã suy giảm nhận thức, mất ý chí.
2) Bệnh nhân vẫn có cảm giác đau ở tay chân, trí nhớ bị giảm sút nhưng ít, vẫn còn nhận thức, tuy không còn minh mẫn như trước nhưng vẫn tiếp nhận đầy đủ thông tin, ở tình trạng này nhiều bệnh nhân bị tổn hại khả năng phát âm, nên phản xạ nói chuyện, đối đáp chậm, và khó khăn, đặc biệt rất khó kiềm chế nuốt nước bọt, nên dớt dãi thường bị chảy. Ngón tay và ngón chân co quắp lại, khớp vai sệ xuống, khớp gối nhão ra, vô lực. Có nhiều khi tay bị liệt co rút vào trong thân, rất khó chịu và vất vả. Tình trạng này nếu muốn điều trị theo phương pháp của tôi thì cần phải có hỗ trợ tích cực của người nhà, hoặc nhân viên chăm sóc. Xác suất phục hồi hoàn toàn 50 đến 70 %
3) Trường hợp thứ 3, là thần kinh và nhận thức của người bệnh vẫn bình thường, minh mẫn. Duy chỉ có não bộ bị tổn thương phần điều khiển chức năng vận động của tay chân. Tình trạng này bệnh nhân vẫn còn nhạy cảm đau bình thường, nhưng tay chân không tuân theo sự điều khiển của não bộ, như vô lực (bất toại). Trường hợp này bệnh nhân có thể tự mình thực hiện liệu pháp mà không cần sự giúp đỡ của người khác, khả năng phục hồi đi lại, và hoạt động tay chân bình thường có thể đạt đến xác suất 90 đến 95 %.
Cả 3 trường hợp trên, bệnh nhân hầu như không bị một tổn hại nào về năng lực nghe và nhìn ( đây là điểm cốt yếu để vận dụng liệu pháp có hiệu quả)
Trong khuôn khổ mục đích của bài viết là liệu pháp Tự Điều Trị, cho nên tôi chỉ đề cập liệu pháp chung cho trường hợp thứ nhất và trường hợp thứ 2.
Liệu pháp gồm 2 phần Động Công và Tĩnh Công, tức là luyện tập ở trạng thái Động và luyện tập ở trạng thái Tĩnh. Luyện tập ở trạng thái Động gồm có 3 thao tác: Hét (chửi lộn)- Luyện tập vận động Tay ( đấm bốc) - Luyện tập vận động Chân (đá banh). Luyện tập ở trạng thái Tĩnh chỉ có một thao tác là luyện tập Lục Tự Khí Công ( ngồi thở).
1) Luyện tập ở trạng thái Động :
a) Luyện Hét ( tôi thường gọi đùa là Chửi lộn). Đây là một môn công phu được rút ra từ phương pháp Sư Tử Hống của Nhà Phật, gần như tiếng hét ki-ai trong các môn võ thuật của Nhật bản. Sư tử hống, là một môn công phu tích khí nội lực vào Đan điền sau đó phát ra một tần số rung động khác thường, vượt ra ngoài ngưỡng nghe ( tai người thường không nghe thấy). Nhưng hàm chứa một năng lượng phi thường có thể làm đổ vỡ đồ vật hoặc gây nội thương cho người nghe (Hình chụp trên cùng là chụp tôi đang chuẩn bị vận khí dùng tiếng hét trợ giúp cho bệnh nhân chữa trị bại liệt), Kỹ thuật dùng cho bệnh nhân là kỹ thuật hét như vậy, nhưng không phát ra ngoài mà hét ngược lên đầu, nhằm lợi dụng năng lượng nội tại đó chấn động lên vùng não bị tổn thương, kích thích phục hồi khả năng vận động.
* Kỹ thuật luyện tập như sau:
Bệnh nhân ngồi trên ghế, hay trên giường thõng hai chân xuống tự do, lưng thẳng, đầu hơi cúi xuống, cổ, gáy, và thắt lưng tạo thành một đường thẳng tương đối. Từ từ hít sâu vào bằng mũi, bụng dưới phình ra, khi cảm tưởng như hơi đã gần đầy thì tưởng tượng như hơi được bơm lên dọc cột sống, bằng thủ thuật là nhíu nhíu hậu môn như bơm hơi lên vậy, rồi tưởng tượng như luồng khí chạy lên đỉnh đầu, khi hơi thở đã luyện tập tương đối thành thục, thì tưởng tượng đưa hơi vào phía não bộ bị tổn thương ( ngược với bên bị bại liệt), rồi tức thì thóp bụng lại hét ra một tiếng thật lớn bằng âm sắc của chữ " G...ồ."
Viết thì dài nhưng quá trình thực hiện rất ngắn. Bí quyết để thực hiện tiếng hét này thành công là bệnh nhân phải tập làm quen với phương pháp thở bụng trước. Tức là hơi thở hít vào bằngmũi, phình bụng ra, thở ra bằng miệng và đồng thời thóp bụng lại.
b) Luyện tay: Sau khi thực hiện tiếng hét "Gồ" như đã trình bày trên 3 lần. Bệnh nhân tưởng tượng hai tay mình như đang tập đấm bốc vào một bao cát treo trước mặt( nếu có bao treo càng tốt). Tay không bị liệt dứ dứ trước mặt như tư thế của người đấm bốc thật sự. Đồng thời tượng tượng tay bị liệt cũng ở tư thế đó. Bệnh nhân có thể nhắm hờ mắt, hoặc nhìn vào bao treo trước mặt. Hít vào một hơi thở như hơi thở của Tiếng hét Gồ ở trên. Rồi khi hét lên tiếng hét Gồ đồng thời vung tay không bị liệt đánh ra phía trước, và tưởng tượng như dốc toàn bộ tiếng hét vào tay. Tiếp tục như vậy, hơi thở thứ hai dành cho tay bị liệt, lúc này bệnh nhân vừa phải thực hiện thao tác thở, vừa nhắm mắt chuẩn bị tưởng tượng ra đòn bằng tay bị liệt, khi tiếng hét vừa bung ra, cũng đồng thời dồn tiếng hét đó vào tay liệt, ra đòn trong tưởng tượng. Tiếp tục như vậy khoảng 3 lần thì nên chuyển sang luyện chân
c) Luyện chân:
Phương thức hoàn toàn như luyện tay, nhưng thay vì bao cát, thì treo một quả bóng, cao ngang tầm đầu gối, phía mũi bàn chân, và thực hiện đá kết hợp với tiếng hét Gồ như trên, chân lành thực hiện trước, chân liệt thực hiện sau
* Lưu ý:
Luyện tập này rất hao tổn sức lực và sinh khí, vì vậy mỗi một lần tập nên thực hiện 3 lần là đủ, có thể tập nhiều lần trong ngày.
Hiệu quả sẽ trong thấy rất rõ rệt sau độ 20 ngày đến một tháng.
( Tôi đã bị một quả đấm bất thình lình từ bàn tay liệt của một bệnh nhân tống vào mặt, rất đau nhưng cũng rất vui)
2) Luyện Tĩnh Công: là phương pháp luyện Lục Tự Khí Công, theo liệu pháp Dưỡng Sinh, hoàn toàn giống như đã trình bày ở Bài Lục Tự Khí Công, Quí vị có thể mở ra ở Blog thuannghia này để nghiên cứu, vì điều kiện, tôi không thể viết lại ra đây một lần
nữa.
Quí vị hãy tin tưởng vào liệu pháp này, vì nó đã đúc kết kinh nghiệm chữa trị bại liệt nhiều năm của tôi. Hơn nữa Quí vị cũng đừng phó thác cho các liệu pháp vật lý khác. Bởi tôi viết nên phương pháp này, khi trong Viện có hàng chục loại máy móc, thiết bị tối tân nhất hiện nay, nhưng hiệu quả điều trị rất khiêm tốn.
_____________________________________________
(Thuận Nghĩa)
Bệnh nhân bị bại liệt sau đột quị có rất nhiều tình trạng khác nhau, tôi tạm thời chia thành 3 tình trạng chính
1) Bệnh nhân bị liệt nửa người hoàn toàn, không có khả năng vận động, ít có cảm giác ở tay chân, trí nhớ không còn minh mẫn, ăn uống và sinh hoạt cá nhân không tự chủ được. Đây là trường hợp nếu muốn điều trị, cần phải có sự có mặt trực tiếp của chuyên viên điều trị, tình trạng này khó phục hồi, vì bệnh nhân đã suy giảm nhận thức, mất ý chí.
2) Bệnh nhân vẫn có cảm giác đau ở tay chân, trí nhớ bị giảm sút nhưng ít, vẫn còn nhận thức, tuy không còn minh mẫn như trước nhưng vẫn tiếp nhận đầy đủ thông tin, ở tình trạng này nhiều bệnh nhân bị tổn hại khả năng phát âm, nên phản xạ nói chuyện, đối đáp chậm, và khó khăn, đặc biệt rất khó kiềm chế nuốt nước bọt, nên dớt dãi thường bị chảy. Ngón tay và ngón chân co quắp lại, khớp vai sệ xuống, khớp gối nhão ra, vô lực. Có nhiều khi tay bị liệt co rút vào trong thân, rất khó chịu và vất vả. Tình trạng này nếu muốn điều trị theo phương pháp của tôi thì cần phải có hỗ trợ tích cực của người nhà, hoặc nhân viên chăm sóc. Xác suất phục hồi hoàn toàn 50 đến 70 %
3) Trường hợp thứ 3, là thần kinh và nhận thức của người bệnh vẫn bình thường, minh mẫn. Duy chỉ có não bộ bị tổn thương phần điều khiển chức năng vận động của tay chân. Tình trạng này bệnh nhân vẫn còn nhạy cảm đau bình thường, nhưng tay chân không tuân theo sự điều khiển của não bộ, như vô lực (bất toại). Trường hợp này bệnh nhân có thể tự mình thực hiện liệu pháp mà không cần sự giúp đỡ của người khác, khả năng phục hồi đi lại, và hoạt động tay chân bình thường có thể đạt đến xác suất 90 đến 95 %.
Cả 3 trường hợp trên, bệnh nhân hầu như không bị một tổn hại nào về năng lực nghe và nhìn ( đây là điểm cốt yếu để vận dụng liệu pháp có hiệu quả)
Trong khuôn khổ mục đích của bài viết là liệu pháp Tự Điều Trị, cho nên tôi chỉ đề cập liệu pháp chung cho trường hợp thứ nhất và trường hợp thứ 2.
Liệu pháp gồm 2 phần Động Công và Tĩnh Công, tức là luyện tập ở trạng thái Động và luyện tập ở trạng thái Tĩnh. Luyện tập ở trạng thái Động gồm có 3 thao tác: Hét (chửi lộn)- Luyện tập vận động Tay ( đấm bốc) - Luyện tập vận động Chân (đá banh). Luyện tập ở trạng thái Tĩnh chỉ có một thao tác là luyện tập Lục Tự Khí Công ( ngồi thở).
1) Luyện tập ở trạng thái Động :
a) Luyện Hét ( tôi thường gọi đùa là Chửi lộn). Đây là một môn công phu được rút ra từ phương pháp Sư Tử Hống của Nhà Phật, gần như tiếng hét ki-ai trong các môn võ thuật của Nhật bản. Sư tử hống, là một môn công phu tích khí nội lực vào Đan điền sau đó phát ra một tần số rung động khác thường, vượt ra ngoài ngưỡng nghe ( tai người thường không nghe thấy). Nhưng hàm chứa một năng lượng phi thường có thể làm đổ vỡ đồ vật hoặc gây nội thương cho người nghe (Hình chụp trên cùng là chụp tôi đang chuẩn bị vận khí dùng tiếng hét trợ giúp cho bệnh nhân chữa trị bại liệt), Kỹ thuật dùng cho bệnh nhân là kỹ thuật hét như vậy, nhưng không phát ra ngoài mà hét ngược lên đầu, nhằm lợi dụng năng lượng nội tại đó chấn động lên vùng não bị tổn thương, kích thích phục hồi khả năng vận động.
* Kỹ thuật luyện tập như sau:
Bệnh nhân ngồi trên ghế, hay trên giường thõng hai chân xuống tự do, lưng thẳng, đầu hơi cúi xuống, cổ, gáy, và thắt lưng tạo thành một đường thẳng tương đối. Từ từ hít sâu vào bằng mũi, bụng dưới phình ra, khi cảm tưởng như hơi đã gần đầy thì tưởng tượng như hơi được bơm lên dọc cột sống, bằng thủ thuật là nhíu nhíu hậu môn như bơm hơi lên vậy, rồi tưởng tượng như luồng khí chạy lên đỉnh đầu, khi hơi thở đã luyện tập tương đối thành thục, thì tưởng tượng đưa hơi vào phía não bộ bị tổn thương ( ngược với bên bị bại liệt), rồi tức thì thóp bụng lại hét ra một tiếng thật lớn bằng âm sắc của chữ " G...ồ."
Viết thì dài nhưng quá trình thực hiện rất ngắn. Bí quyết để thực hiện tiếng hét này thành công là bệnh nhân phải tập làm quen với phương pháp thở bụng trước. Tức là hơi thở hít vào bằngmũi, phình bụng ra, thở ra bằng miệng và đồng thời thóp bụng lại.
b) Luyện tay: Sau khi thực hiện tiếng hét "Gồ" như đã trình bày trên 3 lần. Bệnh nhân tưởng tượng hai tay mình như đang tập đấm bốc vào một bao cát treo trước mặt( nếu có bao treo càng tốt). Tay không bị liệt dứ dứ trước mặt như tư thế của người đấm bốc thật sự. Đồng thời tượng tượng tay bị liệt cũng ở tư thế đó. Bệnh nhân có thể nhắm hờ mắt, hoặc nhìn vào bao treo trước mặt. Hít vào một hơi thở như hơi thở của Tiếng hét Gồ ở trên. Rồi khi hét lên tiếng hét Gồ đồng thời vung tay không bị liệt đánh ra phía trước, và tưởng tượng như dốc toàn bộ tiếng hét vào tay. Tiếp tục như vậy, hơi thở thứ hai dành cho tay bị liệt, lúc này bệnh nhân vừa phải thực hiện thao tác thở, vừa nhắm mắt chuẩn bị tưởng tượng ra đòn bằng tay bị liệt, khi tiếng hét vừa bung ra, cũng đồng thời dồn tiếng hét đó vào tay liệt, ra đòn trong tưởng tượng. Tiếp tục như vậy khoảng 3 lần thì nên chuyển sang luyện chân
c) Luyện chân:
Phương thức hoàn toàn như luyện tay, nhưng thay vì bao cát, thì treo một quả bóng, cao ngang tầm đầu gối, phía mũi bàn chân, và thực hiện đá kết hợp với tiếng hét Gồ như trên, chân lành thực hiện trước, chân liệt thực hiện sau
* Lưu ý:
Luyện tập này rất hao tổn sức lực và sinh khí, vì vậy mỗi một lần tập nên thực hiện 3 lần là đủ, có thể tập nhiều lần trong ngày.
Hiệu quả sẽ trong thấy rất rõ rệt sau độ 20 ngày đến một tháng.
( Tôi đã bị một quả đấm bất thình lình từ bàn tay liệt của một bệnh nhân tống vào mặt, rất đau nhưng cũng rất vui)
2) Luyện Tĩnh Công: là phương pháp luyện Lục Tự Khí Công, theo liệu pháp Dưỡng Sinh, hoàn toàn giống như đã trình bày ở Bài Lục Tự Khí Công, Quí vị có thể mở ra ở Blog thuannghia này để nghiên cứu, vì điều kiện, tôi không thể viết lại ra đây một lần
nữa.
Quí vị hãy tin tưởng vào liệu pháp này, vì nó đã đúc kết kinh nghiệm chữa trị bại liệt nhiều năm của tôi. Hơn nữa Quí vị cũng đừng phó thác cho các liệu pháp vật lý khác. Bởi tôi viết nên phương pháp này, khi trong Viện có hàng chục loại máy móc, thiết bị tối tân nhất hiện nay, nhưng hiệu quả điều trị rất khiêm tốn.
_____________________________________________
Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014
LỤC TỰ KHÍ CÔNG
Chương 1: Xuất xứ của lục tự khí công
Sách Nội kinh, một cuốn sách như là kim
chỉ nam cho toàn bộ nền Y-lý cổ truyền Đông phương,và cũng là nền tảng
cơ sở cho mọi lý luận về nguyên tắc chẩn bệnh và trị bệnh cuả y học cổ
truyền có viết : “Người đời thượng cổ, biết phép dưỡng sinh, thuận theo
qui luật Âm-Dương của bốn mùa biết tu thân dưỡng thần, ăn uống có chừng
mực, làm lụng nghỉ ngơi có kỷ luật, không vô cớ hao tổn tinh lực, cho
nên thân thể họ cường tráng, tinh thần họ phấn chấn sống mãi đến trọn
tuổi trời cho…”
Phép dưỡng sinh mà sách Nội kinh đề cập
tới, theo quan niệm của người xưa là thuận theo trời đất, năm tháng 4
mùa dựa vào âm dương mà hô hấp tinh khí của vũ trụ bồi bổ nội khí của
thân thể, tu dưỡng tinh thần, hòa hợp với thiên nhiên. Đó không những là
cơ sở mấu chốt của các môn Nội công, Khí công, rèn luyện dưỡng sinh
theo phong cách Á-đông hiện nay, mà còn là một cơ sở lý luận mang tính
khoa học, có sức thuyết phục rất cao trong việc bảo vệ sức khỏe con
người.
Trong công cuộc giao lưu văn hóa giữa
Đông và Tây, một xu thế phát triển văn minh của thế kỷ 21, thì những cơ
sở lý luận cũa Y-học cổ truyền Á-đông đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng, nó không những đã thuyết phục, mà còn được Y-học hiện đại thừa
nhận như một môn Y-học thực nghiệm, tồn tại song song với các bộ môn
Y-khoa hiện đại khác. Đặc biệt trong việc rèn luyện sức khỏe, phòng
chống bệnh tật, đẩy lui những căn bệnh hiểm nghèo, thì những phương pháp
của Y-học cổ truyền Á-đông lại được xem trọng hơn, bởi vì ngoài vấn đề
đạt được hiệu quả cao, những phương pháp ấy lại được thực hiện đơn giản,
chi phí thấp, và dễ dàng phổ cập trong đại chúng. Bởi vì vậy chúng ta
chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, trong những năm gần đây ở phương Tây nhan
nhản khắp nơi có các Trung tâm Y-tế, trường học, phòng mạch, bệnh
viện…nghiên cứu và quảng bá các phương pháp trị bệnh như: Châm cứu
(Akupunktur), Bấm huyệt(Akupressur), Yoga, Khí-công (Qi-gong), thuốc Bắc
(Chinesiche Kräuter Medizin) Vệ- đà (Ayurveda ), Thái-cực-quyền
(Tai-tshi) v..v.. Và những phương pháp đó đã được các cơ sở Bảo hiểm
Y-tế thanh toán lệ phí điều trị.
Điểm khác biệt giữa Y-lý Á-đông (TCM)
với y-học hiện đại (Schulmedizin) trong vấn đề sức khỏe của con người là
Y-lý Á đông lấy việc nâng cao sức đề kháng của cơ thể (Chính khí), điều
hòa các chức năng nội tạng (cân bằng Âm -Dương) trên cơ sở đó, tác
động, tăng cường khả năng tự hồi phục của cơ thể, lấy việc Phòng bệnh
làm vấn đền tiên quyết, chữa bệnh chỉ là thụ động, thứ yếu. Và trong
việc trị bệnh cũng lấy Nội khí làm chủ, để điều hòa Khí-Huyết, đào thải
tận góc rể- mầm móng bệnh tật, chứ không phải chỉ dập tắt triệu chứng
như Tây-y.
Đại danh Y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu
Trác có viết. ” Thánh nhân trị khi chưa có bệnh, không để bệnh phát ra
rồi mới chữa, trị khi chưa có loạn, không để loạn rồi mới dẹp, phàm sau
khi có bệnh rồi mới dùng thuốc , loạn đã thành mới dẹp, cũng ví như khát
mới bắt đầu đào giếng, khi chiến đấu mới bắt đầu đúc binh khí thì chẵng
muộn lắm ru… Ngũ vị là Chua, Đắng, Ngọt ,Cay, Mặn. Lục-dục là sự ham
muốn của Mắt,Tai, Mũi, Lưỡi, Thân thể, Ý nghĩ. Thất tình là bảy loại
tình chí của con người đó là Mừng, Giận, Lo ,Nghĩ, Buồn, Sợ, Khủng
khiếp. Trong thì làm thương tổn nội tạng, ngoài thì hại 9 khiếu (Miệng, 2
mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, tiền âm, hậu môn ) do đó mà sinh ra bệnh tật, cho
nên Thái Thượng Lão Tổ dùng phương pháp luyện khí để chữa bệnh ở
Tạng-phủ, phép lấy dùng cách thở ra để tiết khí độc ra ngoài, dùng cách
thở vào để thu lấy tinh khí của trời đất bù vào, có thể sau một ngày đã
thấy hiệu nghiệm nhỏ, sau một tuần đã thấy hiệu nghiệm lớn, sau một năm
mọi bệnh tật đều hết, tuổi thọ tăng lên rất nhiều…(Quyển thượng-Vệ sinh
yếu quyết-Hải Thượng Lãn Ông Y Tâm lĩnh)
Theo quan niệm của y lý cổ truyền, con
người là một Vũ trụ thu nhỏ, bởi vậy vạn vật trong vũ trụ đều có khả
năng hoạt hóa ảnh hưởng đến dòng sinh lực tồn tại của con người, và
ngược lại dòng sinh hóa của con người cũng có thể thăng hoa để hóa nhập
vào cội nguồn của thiên nhiên. Dựa vào nguyên lý đó các bậc Chân nhân,
Đạo sĩ, các Danh y thời xưa ngoài việc dùng cây cỏ, chim muông, và các
vật thể hữu hình khác như đá, cuội, khoáng vật…để lấy những tinh chất đã
hấp thụ Khí hóa khác nhau của thiên nhiên, sử dụng như những vị thuốc
làm tăng cường nội khí, điều hòa những rối loạn bệnh lý trong cơ thể con
người, thì họ còn biết sử dụng những năng lượng siêu nhiên, những vật
chất vô hình để phục vụ cho việc bảo vệ sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.
Những năng lượng thiên nhiên thường được
tận dụng nhất của người xưa là Trường sinh học của thuật Phong thủy,
thủy nhiệt của các nguồn suối, ánh sáng có màu trong Quang đạo dẫn, đặc
biệt dùng kỹ thuật Âm thanh để trị bệnh đã đạt đến trình độ tinh xảo vô
cùng, ví dụ như dùng chấn động của tiếng hét nội lực để đã thông kinh
mạch trong môn Sư tử hống của Thiếu lâm, dùng Âm thanh của nhạc cụ như
chiêng, trống, mõ ..hoặc âm điệu của giọng nói để dẫn dắt con người vào
những trạng thái tâm lý nhất định nhằm mục đích dẫn dụ, khai mở, thức
tỉnh, khơi động những trung tâm năng lượng tiềm ẩn trong con người phục
vụ cho vấn đề chẩn bệnh cũng như trị bệnh. Trong đó Lục Tự Khí Công là
một phương pháp đặc thù đã vận dụng những chấn động vi tế của Âm thanh
kết hợp với hô hấp để tạo nên một phương pháp trị bệnh dưỡng sinh thần
diệu.
Lục Tự Khí Công tạm dịch là môn công phu
luyện khí theo 6 chữ, còn gọi là Lục Tự Quyết (Khẩu quyết 6 chữ). Tương
truyền do Thái Thượng Lão Tổ một Đạo nhân tu Tiên thời thượng cổ Trung
hoa sáng lập.
Lục-tự-khí-công của Thái thượng lão tổ
ban đầu gồm có 7 chữ, 1 chữ thở vào và 6 chữ thở ra, do trong trường hợp
luyện tập nào cũng chỉ sử dụng một chữ thở vào là chữ: “Hấp” còn kỹ
thuật luyện tập thay đổi là phụ thuộc vào sự tiết Tự của 6 chữ thở ra
cho nên vẫn gọi là Lục-tự-khí-công.
Sáu chữ thở ra được phân biệt theo tính chất trường độ của hơi thở, và được phân loại như sau:
1- Chữ HA là hà hơi ra
2- Chữ HƯ là thở phào ra
3- Chữ XU là thở ngắn
4- Chữ HU là thổi ra từ từ
5- Chữ XUY là thở dài ra
6- Chữ HY là thở rền rả điều hòa
Lục tự khí công đang lưu hành hiện nay
là do Đạo trưởng Xích-Tùng-Tử tu luyện phép trường sinh ở núi Hoa-sơn
nghiên cứu, ứng dụng và truyền bá cho đời sau. Lấy 6 chữ của Thái Thượng
làm cơ sở , Xích Tùng-Tử không những chỉ dựa vào tính chất trường độ
của từng tự quyết, mà còn phân biệt Âm sắc, động thái của từng Chữ ứng
với các khí hoá ngũ hành của Vũ trụ, và qui nạp vào tính chất hành khí
của từng kinh mạch, huyệt vị hoặc từng tạng phủ trong cơ thể. Mỗi Tự
quyết đặc trưng cho một hình thái năng lượng khác nhau, có sức chấn
động, tương tác khác nhau, nhưng lại có tính thâu nhiếp, tàng trữ, hỗ
trợ, phát tán hoặc khống chế lẫn nhau như trong một thể thống nhất mà
triết học Á đông gọi là Tương-Sinh (Cái này tạo ra cái kia) hoặc là
Tương-Khắc (Cái này khống chế cái kia).
Thông qua việc rèn luyện, ứng dụng Lục
tự quyết vào việc phòng bệnh và trị bệnh, Đạo trưởng Xích-Tùng Tử đã lập
nên một Y-phái đặc biệt, và đúc kết những tinh hoa kinh nghiệm vào cuốn
: “Lục Tự Bệnh Lý Kỳ Thư” (Thanh-Long Y phái ở Huế có giữ một cuốn viết
tay bằng bằng chữ Nôm), Sách có những lý luận vi diệu về triệu chứng
lâm sàng cũng như cách phòng, chống bệnh tật, được các Danh y ngày xưa
xem như cẩm nang hành nghề. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Lục-tự-quyết
không có gì thay đổi về căn bản kỹ thuật, chỉ về việc trào lưu phát
triển , Lục tự quyết có nhiều lúc chìm lắng trong dân gian, ẩn tích vào
thâm sơn cùng cốc cùng với các đạo sĩ của Đạo giáo, nhường lại cho những
trào lưu dưỡng sinh rầm rộ khác, như dịch cân kinh, Bát đoạn cẩm của
Thiếu lâm tự, Thái cực quyền của Võ đang, Ngũ hành hình ý quyền, Ngũ
linh quyền, Thập nhị khí công, Du-già( Yoga) hoặc các môn khí công Nội
gia của các Võ phái lừng danh khác.
Sở dĩ Lục tự quyết không phát đại quang
dương ồn ào náo nhiệt như các môn dưỡng sinh khác là vì Lục tự quyết chỉ
đơn thuần là một môn dưỡng sinh, không có các động tác oai phong, uy
dũng, bay bướm như võ học, và mục đích rèn luyện cũng không phải để đạt
đến những khả năng siêu phàm, mặt khác những lý luận trong Lục tự quyết
cũng không phải là những lý luận triết học thâm sâu có sức quyến rũ, lý
giải về nhân sinh quan và thế giới quan như các môn Dưỡng sinh khác, mà
luyện tập chỉ để Nâng cao chính khí-Điều hòa cơ thể-Phòng chống bệnh
tật- kéo dài tuổi thọ .Chính vì vậy mà Lục Tự Quyết trong một khoảng
thời gian dài của lịch sử chỉ được tồn tại và coi trọng trong các Gia-Y
như một phương pháp đặc biệt để nâng cao Y-Lực trong nghề. Trong thời
đương đại, bởi nhịp điệu cuộc sống quá hối hả, ráo riết, thời gian sử
dụng quá nhiều cho những nhu cầu của đời sống hiện đại ,vì vậy người ta
chỉ muốn tìm đến những gì đơn giản, tiện lợi và dễ thực hiện nhưng vẫn
đảm bảo hiệu quả cao. Lục tự khí công đáp ứng được những nhu cầu đó,cho
nên đã được tìm tòi nghiên cứu và dần dần được phổ biến rộng rãi như một
phương pháp phòng bệnh ưu việt.
Chương 2: Các nguyên tắc căn bản của lục Tự khí công
A- Hình thái của Lục tư quyết:
Tự quyết bao gồm có 6 CHỮ hay nói cách khác có 6 Âm tiết khác nhau:
1- Chữ HƯ
Như tiếng gầm gừ trong cổ họng phát ra,
không phụ thuộc vào môi và lưỡi, gần giống như âm “Hứ” trong phản xạ tự
nhiên của trạng thái tinh thần giận dữ, thách thức, bực bội, hoặc bị kẻ
thua mình dọa dẫm, coi thường, hay lúc muốn trấn áp người khác mà không
muốn nhiều lời,thường liên quan đến tính tự ái, lòng tự trọng và sự uất
hận.
2- Chữ HA
Như thể hà hơi ra, miệng há ra tự
nhiên,lưỡi đè xuống hàm dưới, như thể hiện của âm thanh tự phát trước
một sự nhận biết bất ngờ,âm thanh phát ra tương tự như một câu hỏi đã
được khẳng định ” Há ? ” hoặc như tiếng cười thoải mái tự nhiên ”
hà..hà” Âm thanh tự phát này liên quan đến trạng thái thỏa mãn hài lòng.
3- Chữ HÔ
Miệng hơi hé mở, môi chu lại như vòng
tròn, hơi từ trong thoát ra qua vành môi để tạo nên âm thanh. Tương tự
như tiếng cười nhạo báng ” hô …hô..hô..” thể hiện sự hiểu, cái đúng của
suy nghĩ trước sự nhầm lẫn về kiến thức của người khác. Hay là biểu hiện
kết quả toại nguyện của sự tính toán lo toan,suy nghĩ.
4- Chữ HI
Miệng bành ngang ra, răng khép hờ, lưỡi
hơi cong , đầu lưỡi tỳ xuống chân răng của hàm dưới. Gần như tiếng khóc
của người lớn ” hí..hí..hí..” thể hiện sự buồn đau mất mát
5- Chữ SUY
Môi chu lại rồi kéo bành ngang ra đồng
thời hơi từ trong phát ra ngoài qua vòm lưỡi hơi cong lên.Tương tự như
âm ” xùy..” của một người muốn ngăn chặn người khác đừng ồn ào, quấy rối
để chú ý theo dõi, cảnh giác trước một vấn đề gì rất đáng quan tâm hoặc
lo ngại.
6- Chữ HU
Miệng gần giống như phát chữ Hô, nhưng
môi chu lại nhỏ hơn chỉ chừa lại một lỗ nhỏ, hơi được thổi mạnh ra đó
tạo thành âm thanh như gió thổi. tương tự như tiếng hú kéo dài của người
đi rừng muốn thông báo, kêu gọi, cảnh báo cho người khác đang ở cách xa
mình.
B- Luc tự quyết qui nạp với ngũ hành:
1- Khái niệm về Ngũ hành:
Ngũ-hành là 5 trạng thái cơ bản của vật
chất theo quan điểm triết học Á-đông, được phân loại thành 5 trạng thái
hành khí khác nhau, đặc trưng cho tính chất vận động của vạn vật. Ngũ
hành là nền tảng cơ sở để hình thành các nguyên lý của Lục tự khí công
a- Phân loại ngũ hành:
Hành MỘC có thể hiểu nôm na là có tính chất như Gỗ, Cây cỏ
Hành HOẢ ———————————————— Lửa
Hành THỔ ———————————————— Đất, Đá
Hành KIM ————————————————- Kim loại
Hành THỦY ———————————————- Nước
b- Ngũ hành qui nạp vào thiên nhiên:
Ngũ Hành: Mộc Hoả Thổ Kim Thuỷ
Mùa : Xuân Hạ Trưởng hạ Thu Đông
Phương hướng: Đông Nam Trung ương Tây Bắc
c- Các qui luật của ngũ hành:
Ngũ hành có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, tương tác, hỗ trợ, chế ngự lẫn nhau thông qua những qui luật nhất định:
° Qui luật tương sinh
Là hành khí này có thể phát sinh ra hành
khí kia, cũng có hàm nghĩa là nuôi dưỡng, hỗ trợ giúp đỡ nhau để sinh
trưởng và phát triển. Hành khí có khả năng sinh ra hành khác được gọi là
Hành Mẹ (Mẫu), hành khí được sinh ra gọi là Hành Con (Tử).Mối quan hệ
ngũ hành tương sinh vì vậy còn được gọi là mối quan hệ Mẫu-Tử:
- Hành Mộc sinh ra Hành Hỏa: Ví dụ như Gỗ đốt cháy thành Lửa
- Hành Hỏa sinh ra Hành Thổ :Ví dụ như vạn vật bị cháy đều trở thành tro đất
- Hành Thổ sinh ra Hành Kim: Ví dụ như Kim loại có từ đất, đá quặng mà ra
- Hành Kim sinh ra Hành Thủy: Ví dụ như Sương lạnh có trên kim loại
-Hành Thuỷ sinh ra Hành Mộc :Ví dụ như Cây cối nhờ có nước mà trưởng thành
(Mộc—->Hỏa——>Thổ—–>Kim—->Thủy—->Mộc…..)
(Mối quan hệ Mẫu- Tử trong ngũ hành khi
được qui nạp vào Cơ thể con người theo cấu tạo của nội tạng và cấu trúc
của kinh mạch huyệt vị, đóng một vai trò hết sức quan trọng, nó là
nguyên tắc cơ bản của thủ pháp Bổ-Tả trong trị liệu Đông-Y. Cụm từ “Hư
thì Bổ Mẫu, Thực thì Tả Tử” có hàm nghĩa là cơ quan nội tạng nào bị suy
thoái chức năng thì bồi bổ ở cơ quan Mẹ, cơ quan nào khí huyết ứ trệ,
quá tải thì phải tiết tả ở cơ quan Con . Khái niệm Mẹ, Con là được hiểu
theo ý nghĩa Mẫu-Tử ở trên. )
° Qui luật tương khắc:
Có nghĩa là khống chế, ngăn cản, kìm hãm
lẫn nhau để giảm bớt sự phát triển bừa bãi. Mối quan hệ tương khắc
trong ngũ hành được xem là mối quan hệ Được-Thua:Nó thắng ta hay là ta
thắng nó, thể hiện ở đặc tính, cái này có khả năng ngăn cản, kìm chế,
thậm chí còn sát phạt cái kia:
-Hành Mộc >Khắc chế < Hành Thổ____Ví như Cây cỏ lấy hết dinh dưởng làm cho đất khô cằn
-Hành Thổ >Khắc chế< Hành Thủy____Ví như đất đá núi, đồi ngăn cản dòng chuyển lưu của nước
-Hành Thủy >Khắc chế< Hành Hỏa____Ví như nước dập tắt được lửa
-Hành Hỏa >Khắc chế< Hành Kim____Ví như lửa nung cho kim loại chảy ra
-Hành Kim >Khắc chế< Hành Mộc____Ví như dao búa có thể chặt vụn cây cối….
Qui luật tương sinh và qui luật tương
khắc là hai điều kiện không thể thiếu được để duy trì sự thăng bằng
tương đối của vạn vật.Trong tương sinh có tương khắc, trong tương khắc
có tương sinh, đó là qui luật chung về sự vận động biến hóa của tự
nhiên, nếu chỉ có tương sinh mà không có tương khắc thì không thể giữ
được thăng bằng sự phát triển bình thường của sự vật. Nếu chỉ có tương
khắc mà không có tương sinh thì vạn vật không thể sinh trưởng được.Trong
Sinh hóa có Ức chế, trong Ức chế có Sinh hóa đó là điều kiện tất yếu
cho sự tồn tại của vạn vật.
Ngoài hai qui luật cơ bản đó, mối quan
hệ của ngũ hành còn tuân theo một vài qui luật phụ khác ví dụ như Ngũ
hành tương thừa và Ngũ hành tương vũ.
Tương thừa có hàm nghĩa là thừa thế
thắng để lấn tới trấn áp cái kém mình, ví dụ như bình thường thì Thổ chế
ngự Thủy, không cho Thủy phát sinh một cách tùy tiện, nhưng khi Thổ quá
dư thừa thì không phải là sự khống chế hữu ích nữa, mà sinh ra sát
phạt, hình hại Thủy làm cho Thủy suy yếu, dẩn đến mất cân bằng của sự
phát triển.( “Cương tắc hại” mạnh quá thì hình hại).
Tương vũ có hàm nghĩa khi có thế thắng
thì lấn lướt cái đáng ra khống chế mình, ví dụ lúc bình thường thì Thủy
khắc chế Hỏa, nhưng có khi vì Hỏa quá mạnh, Thủy không thể nào khống chế
được làm hao tổn tiềm lực của chính mình dẫn đến bị suy yếu, cho nên
coi như ngược lại Hỏa lại khắc hại Thủy ( ” Thừa tắc nãi chế” :Thừa thãi
thì khống chế lại).
Qui luật Tương thừa và tương vũ là hiện
tượng khác thường (phản thường) của qui luật Ngũ hành tương sinh, ngũ
hành tương khắc (chính thường).Tuy rằng là phản thường nhưng lại có tính
tất yếu trong chuỗi vận động của vật chất.
2- Lục tự qui nạp vào ngũ hành
Qui nạp lục tự vào ngũ hành là xác định
tính chất chấn động của từng tự quyết một cách cụ thể thông qua những
đặc điểm tương ứng của từng loại ngũ hành, cũng như các qui luật vận
động của nó
Chữ HƯ—————-ứng với hành————– MỘC
Chữ HA—————-ứng với hành—————HỎA
Chữ HÔ—————-ứng với hành—————THỔ
Chữ HI—————–ứng với hành—————KIM
Chữ SUY————–ứng với hành—————THỦY
Chữ HU —————ứng với hành—————-HỎA
3- Lục tự tương sinh
Khi đã được qui nạp vào ngũ hành, thì tất cả các Tự quyết đều phải tuân theo các qui luật vận động của ngũ hành,
Vòng lục tự tương sinh có chữ HƯ khởi đầu gọi là vòng : Nhật khởi- Đông khai
Có vòng tương sinh theo thứ tự : HƯ-HA-HÔ-HI-SUY-HU
Vòng lục tự tương sinh có chữ HA khởi đầu gọi là vòng : Chính Dương vi quân
Có vòng tương sinh theo thứ tự : HA-HÔ-HI-SUY-HU-HƯ
Vòng lục tự tương sinh có chữ HÔ khởi đầu gọi là vòng Ngũ trung đại hóa
Có vòng tương sinh theo thứ tự : HÔ-HI-SUY-HU-HƯ-HA
Vòng lục tự tương sinh có chữ HI khởi đầu gọi là vòng:Tây kết vi thần
Có vòng tương sinh theo thứ tự : HI-SUY-HU-HƯ-HA-HÔ
Vòng lục tự tương sinh có chữ SUY khởi đầu gọi là vòng: Vọng nguyệt tàng nguyên
Có vòng tương sinh theo thứ tự : SUY-HU-HƯ-HA-HÔ-HI
Vòng lục tự tương sinh có chữ HU khởi đầu gọi là vòng : Tàng dương tá sứ
Có vòng tương sinh theo thứ tự : HU-HƯ-HA-HÔ-HI-SUY
Trong 6 vòng Lục tự tương sinh thường
được sử dụng nhiều nhất là vòng Nhật khởi đông khai ( chữ HƯ đứng đầu)
kế đến là vòng Vọng nguyệt khai nguyên (chữ SUY đứng đầu) sau là tới
vòng Ngũ trung đại hóa (chữ HÔ đứng đầu),còn các vòng còn lại rất ít khi
sử dụng đến.
Chương 3: Phương pháp luyện tập lục tự khí công
1-Chuẩn bị:
- Tắm gội sạch sẽ, quần áo nới lỏng,
rộng rãi, thoải mái – “ngoại khiết” – Chọn nơi yên tĩnh, thoáng mát,
không có sự quấy nhiễu ( tránh trường hợp vừa luyện tập vừa mở Truyền
hình ) ” tịnh viên”- Ngồi xếp bằng thoải mái , hoặc ngồi trên ghế thả
lỏng hai chân chạm đất- “nhu tọa” – Hai tay để lên đùi một cách tự nhiên
“thủ-túc giao hòa”- Eo lưng hơi thót lại, hai vai buông lỏng – ” yêu
bối hướng tâm, kiên ngung hướng hạ” – Cằm hơi thu vào, để từ gáy xuống
thắt lưng tạo thành một đường thẳng – “hậu thân trực chỉ” – Hai mắt khép
hờ, nhẹ nhàng vô tư lự ( ” Lãn miêu mục thị” : như mắt con mèo lười
ngái ngủ)
2-Thực hành:
a) phương pháp thở và kỹ thuật
tiết-nhiếp Tự quyết: -Hít vào bằng mũi, hít xuống bụng dưới, bụng hơi
phình ra. Chỉ cần trong ý niệm biết rằng ta đang hít vào một luồng không
khí trong sạch, từ đỉnh đầu đi xuống bụng dưới, không cần quan tâm khí
đi như thế nào và cũng không cần thiết cố hít vào thật sâu – Thở ra bằng
miệng, khi thở ra kèm theo việc trong ý nghĩ phát ra tự quyết, ở mỗi
hơi thở, tự quyết chỉ phát ra một lần và ngân vang cho đến cuối hơi thở.
Trong khi thở ra môi và lưỡi đặt ở vị trí thích hợp để phát ra ÂM QUYẾT
đã chọn. Đặc biệt lưu ý Chỉ phát ra tự quyết bằng ý niệm mà không phát
ra thành tiếng, sự rung động như có thể nghe được rõ ràng nhưng chỉ
trong tâm thức chứ không phát ra âm thanh thực sự – Đến cuối hơi thở
miệng ngậm lại, đầu lưỡi chạm nướu răng trên và tiếp tục hít xuống bụng
dưới để bắt đầu một chu kỳ thở tiếp theo. Hơi thở này tiếp theo hơi thở
kia liên tục, khoan thai, nhịp nhàng, đều đặn. Không thô, không ngắt
quãng, không gấp gáp, không dồn dập.
b)Thực hành Lục tự tương sinh: – Luyện
tập Lục tự quyết là luyện tập theo một vòng Lục tự tương sinh hoàn chỉnh
chứ không phải luyện tập từng Tự quyết riêng biệt, mổi Tự quyết được
lặp đi lặp lại theo một lượng số có hạn định, rồi Tự quyết này nối tiếp
Tự quyết kia theo qui luật của Lục tự tương sinh, hết một vòng Lục tự
tương sinh là kết thúc phần thực hành tự quyết -Có hai cách luyện tập
Lục tự quyết: Luyện tập dưỡng sinh, nâng cao chính khí và luyện tập để
trị bệnh. Mỗi một cách luyện tập chỉ khác nhau về số lần tiết tự và thời
điểm luyện tập mà thôi chứ về kỹ thuật không có gì thay đổi.
* Luyện tập dưỡng sinh: Tùy thuộc vào
thời gian trong ngày, ta chọn thời điểm luyện tập vào lúc nào thì có
vòng Lục tự tương sinh tương ứng với thời điểm đó. Có 3 thời điểm trong
ngày luyện tập có hiệu quả nhất
° Từ 5 đến 9 giờ sáng chọn vòng Lục tự
tương sinh Nhật khởi- Đông khai tức là vòng tương sinh có Chữ HƯ đứng
đầu (HƯ-HA-HÔ-HI-SUY-HU) để luyện tập. Sau khi đã chuẩn bị tư thế tập
luyện như đã trình bày trên bắt đầu quá trình hô hấp tiết tự: Hít vào từ
từ bằng mũi, nhưng lại tưởng tượng như có một luồng thanh khí đi vào
đỉnh đầu và hướng xuống bụng dưới đồng thời lúc đó bụng hơi phình ra,
hơi thở vào vừa đủ thoải mái ( không cần thiết hít vào thật sâu) tiếp
nối ngay lúc đó, bụng từ từ thót lại bắt đầu kỳ thở ra, miệng mở nhẹ như
chuẩn bị phát âm chữ HƯ (xem phần hình thái của tự quyết) theo với
luồng hơi như thể được ép ra từ bụng dưới ra ngoài là âm tự HƯ được sự
chỉ đạo của tâm tưởng phát ra và ngân dài cho đến tận cuối hơi, âm tự
được phát ra thực sự với mọi nguyên lý, cấu trúc hoàn chỉnh của sự phát
âm, nhưng lại không thành tiếng hay nói một cách khác dễ hiểu hơn là
người luyện tập nghe được trong tâm trí của mình rõ ràng âm tự phát ra,
nhưng người ngồi bên cạnh không nghe rõ. Khi hơi thở ra vừa hết cũng
không cần phải cố xả thật hết hơi, thì lại tiếp tục hít vào để tiếp tục
chu kỳ tiết tự mới. Cùng với hơi thở ra mỗi tự quyết được thực hiện 21
lần, lần lượt từ Tự quyết HƯ 21 lần rồi đến Tự quyết HA 21 lần cho đến
Tự quyết HU thì kết thúc một buổi tập.Tổng cộng tất cả là 126 hơi thở
tiết tự. Phân tích cả quá trình thì có vẻ là khó thực hiện, nhưng khi đã
nắm vững Nguyên lý việc tập luyện rất đơn giản. Ví dụ khi hít vào, chỉ
cần bụng hơi phình ra miệng ngậm lại là bắt buộc hơi phải theo mũi để
vào, lúc đó chỉ cần đưa sự chú ý lên đỉnh đầu thì tự nhiên cảm giác như
thể có luồng hơi chạy vào đỉnh đầu, hít vào phình bụng ra, khi đủ hơi
theo phản xạ lúc xả hơi ra tự nhiên bụng lại tự động thóp vào, chỉ cần
đưa sự chú ý của tư tưởng vào âm tự nơi vòm miệng là đã thực hiện được
sự tiết tự như ý muốn.
° Từ 13 cho đến 15 giờ chiều thì chọn
vòng Lục tự tương sinh Ngũ Trung Đại Hóa, tức là vòng tương sinh có chữ
HÔ khởi đầu: (HÔ-HI-SUY-HU-HƯ-HA) lần lượt luyện tập như đã trình bày
trên
° Từ 20 giờ tối cho đến quá nửa đêm chọn
vòng Vọng Nguyệt Tàng Nguyên tức là vòng tương sinh có chữ SUY khởi đầu
để tập luyện (SUY-HU-HƯ-HA-HÔ-HI)
Tại sao ở 3 thời điểm trên, luyện tập
Lục tự khí công lại có hiệu quả hơn các thời điểm khác? và tại sao ở mỗi
thời điểm lại phải sử dụng mỗi vòng Lục tự khác nhau? Nếu nắm vững các
qui luật vận hóa của ngũ hành, ứng với qui luật vận động của Vũ trụ cũng
như qui nạp vào cơ thể con người như đã trình bày ở phần Các nguyên tắc
cơ bản của Lục tự khí công thì câu hỏi đó rất dễ giải thích. Ở mỗi vòng
lục tự tương sinh, chữ khởi đầu đóng vai trò rất quan trọng nó quyết
định toàn bộ tính chất chấn động, và khả năng hành hóa cho cả vòng, chữ
khởi đầu mang Hành gì, thì cả vòng tương sinh đều mang tính chất của
hành đó.Ví dụ chữ HƯ mang hành Mộc, thì vòng Lục tự ” Nhật khởi-Đông
khai” có chữ HƯ khởi đầu cũng mang Hành Mộc, tương tự ở các vòng Lục tự
khác cũng vậy. Ngoài ra mỗi vòng Lục tự mang một ý nghĩa tượng trưng cho
khả năng tác động của nó vào quá trình hoạt động, sinh trưởng và tồn
tại của con người. Ví dụ: -Vòng Nhật khởi-Đông khai mang hành Mộc vì chữ
khởi đầu là chữ HƯ ( hành Mộc). Đối với thiên nhiên cũng như cơ thể con
người hành Mộc ứng với sự khai mở, phát sinh cho một chu kỳ vận hóa
(Phát triển và tồn tại). Hành Mộc tương ứng với phương Đông , tương ứng
với với giờ Dần, giờ Mão :từ 3 đến 5, từ 5 đến 7 giờ (xem kỹ phần Lục tự
qui nạp với ngũ hành) .Vòng lục tự có tên là Nhật khởi ( mặt trời mọc) –
Đông khai ( mở ở hướng Đông) ngoài ý nghĩa là hành Mộc ứng với phương
Đông, vào lúc mặt trời mọc, hai chữ “khởi”: là bắt đầu và chữ “khai”: là
khai mở còn, có ý nghĩa nói đến khả năng khai mở, nói đến năng lượng
chấn động thúc đẩy cho một vòng sinh hóa khởi động. Tương tự như vậy,
vòng Lục tự Ngũ trung đại hóa có chữ HÔ đứng đầu, chữ HÔ thuộc hành Thổ,
cho nên cả vòng Lục tự này đều là hành Thổ. Hành Thổ đối với quá trình
sinh hóa của cơ thể là biểu tượng cho sự phát tán, hoạt hóa của năng
lượng vật chất được hấp thụ qua đường tiêu hóa (khí hậu thiên), năng
lượng vật chất này theo Đông y là bao gồm Khí, Huyết,và Tân dịch, hai
chữ Đại hóa của vòng Lục tự tương sinh này bao hàm ý nghĩa là Hành khí,
Hoạt huyết, và dưỡng tân, nói tóm lại sự chấn động của vòng Lục tự này
là giúp cho khí, huyết được lưu thông mạnh mẽ khắp thân thể. Còn vòng
Lục tự Vọng nguyệt tàng nguyên dịch ra nghĩa đen là Nhìn trăng mà thu
giữ lấy nguyên khí. Chỉ có ban đêm mới có trăng, ban đêm là giờ hợi giờ
tý thuộc hành Thủy bởi vậy mới chọn vòng lục tự tương sinh có hành thủy
là chữ SUY khởi đầu là vậy và nó có tác dụng với sự sinh hóa của cơ thể
là hỗ trợ quá trình tàng trữ, tích lũy, giữ gìn và bảo vệ nguyên khí.
Tóm lại chọn 3 vòng Lục tự tương sinh này sở dĩ có những đặc điểm đặc
thù tương ứng với các thời điểm thích hợp trong ngày là vì 3 vòng Lục tự
này mang 3 hành khí Mộc, Thổ, Thủy là đại diện cho 3 giai đoạn quan
trọng nhất của quá trình phát triển và tồn tại của khí hóa. (Qui luật
phát triển tất yếu của vạn vật đều nhất định phải trải qua các giai
đoạn: Phát sinh-Trưởng thành-Hành hóa-Thu nhiếp và Tàng trữ). Khí Mộc
thịnh vượng nhất buổi tảng sáng, có khả năng kích động sự phát sinh. Khí
Thổ thịnh vượng nhất vào buổi xế trưa có khả năng kích hoạt sự phát
tán, thăng hoa và lưu chuyển. Khí Thủy thịnh vượng nhất vào buổi tối có
khả năng thúc đẩy quá trình tích lũy, tàng trữ, và bảo vệ. Ngoài những
yếu tố cơ bản ấy, yếu tố tiện lợi cho sinh hoạt hàng ngày cũng được chú
trọng, tảng sáng, xế trưa và chiều tối là những thời điểm thuận lợi để
thực hành và luyện tập. Như đã nói trên đó là 3 thời điểm trong ngày,
tương ứng với 3 vòng lục tự tương sinh mà người luyện tập dưỡng sinh
bình thường đạt được hiệu ứng khí hóa tối đa nhất. Thực ra luyện tập bất
kỳ một vòng Lục tự tương sinh nào, và vào thời điểm nào củng đều có kết
quả nâng cao chính khí, điều hòa khí huyết và củng cố thể trạng để bảo
vệ sức khỏe cả. Tuy nhiên nếu có điều kiện thì luyện tập 3 lần trong 1
ngày với 3 vòng Lục tự đã chọn thì tốt nhất, còn không chỉ cần mỗi ngày
một lần chuyên cần đều đặn đã đạt được những thành tựu mà không có một
thứ thuốc bổ dưỡng nào sánh kịp. Ngoài ra muốn có hiệu quả tốt hơn cho
việc phục hồi các chức năng bị rối loạn lệch lạc thì nên căn cứ vào tình
trạng thể khí của cơ thể để lựa chọn vòng Lục tự thích hợp. Ví dụ:
“..tình trạng khí huyết thiếu. Khả năng thu nạp dinh dưỡng kém, kèm theo
những triệu chứng hay mệt mỏi, chán chường ủ dột, u uất, thần sắc bạc
nhược v..v, đó là do nguyên nhân lệch lạc ở chỗ phát động khởi đầu của
dòng sinh khí, vì vậy nên chọn vòng Lục tự “Nhật khởi-Đông khai” mà
luyện tập. Sinh khí đầy đủ, dinh dưỡng dư thừa, mà thần sắc không tươi
nhuận, đau nhức thường xuyên… là do rối loạn nơi chỗ hoạt hóa, vì vậy mà
chọn vòng Lục tự “Ngũ trung đại hóa” mà dùng. Sinh khí hoạt hóa khắp
châu thân, phát tán bộn bề nơi kinh mạch, sức khỏe như dư thùa mà tâm
thần vẫn hoảng hốt, ăn nói cuồng ngôn bạo ngữ, ngang ngạnh, hiếu chiến,
hỷ nộ thất thường, tham dâm, loạn dục ..v.v..là bởi lệch lạc nơi khâu
tàng trữ, do khả năng thâu nhiếp giữ gìn lỏng lẻo nên để cho Chân khí
không có chỗ nương tựa bám víu mà lồng lộn như ngựa điên, loạn lưu nơi
kinh mạch, thất tán ra ngoài là vậy. Khi gặp tình trạng này nên chọn
vòng “Vọng nguyệt tàng nguyên” chuyên cần mà luyện, năm bữa, bảy ngày
tất khỏi.” (LụcTự Bệnh Lý Kỳ Thư ) Kinh nghiệm người xưa ghi lại
” Lưỡng thuận, đắc thời chi sở dụng,
Minh khai, đông khởi vị tòng sinh
Mãn ngọ tọa trung luân đại hóa
Nhập dạ tàng nguyên, thâu, nhiếp,bình…” (Sách Lục tự kỳ môn dị pháp)
Dịch nghĩa : Gặp thời điểm mà có hai có 2
cái thuận lợi thì nên dùng, như buổi hừng đông , một là khí Mộc thịnh
vượng nhất, hai là lúc vừa ngủ dậy chuẩn bị cho một ngày mới thuận tiện
cho việc rèn luyện thì dùng vòng Nhật khởi-Đông khai là vòng tòng sinh
mà luyện. Quá trưa vừa phù hợp với giờ nghỉ trưa, khí thổ lại cường
tráng , ngồi ở trung tâm mà luân chuyển vòng đại hóa (Ngũ trung đại
hóa). Vào đêm khi thủy khí đầy tràn, lại vừa qua khỏi một ngày vận động,
đến thời nghỉ ngơi là lúc rất phù hợp để tàng trữ nguyên khí, thu nhận
tinh khí trở lại nơi tiên thiên, điều tiết quân bình khí huyết, đó là
chức năng của vòng lục tự Vộng Nguyệt Tàng Nguyên
3- Luyện tập để trị bệnh:
Kỹ thuật luyện tập Lục tự khí công để
trị bệnh về căn bản hoàn toàn giống như kỹ thuật luyện tập dưỡng sinh đã
trình bày ở trên. Nhưng về tình tự và số lần tiết tự có khác nhau.
-Về thời gian luyện tập không nhất thiết
phải lựa chọn thời gian thích hợp một cách kỹ càng như các Cổ thư chỉ
dạy. Ví dụ bệnh ở tạng phủ nào thì phải lựa chọn thời gian tương ứng với
tạng phủ ấy để luyện như bệnh về Phổi thì phải chọn giờ Thân, giờ Dậu,
bệnh về Tim mạch thì chọn giờ Tỵ giờ Ngọ v..v…Thứ nhất là bởi việc chọn
lựa thời gian phức tạp, không giản tiện như yêu cầu của phương pháp, thứ
hai là hiệu quả không có gì khác biệt lớn vì năng lượng chấn động, kích
thích chủ yếu phụ thuộc vào hình thể của Tự quyết. Về thời gian, nếu
được chỉ tuân thủ theo 3 thời điểm trong ngày như đã trình bày ở phần
Luyện tập dưỡng sinh (xin tham khảo phần Lục tự qui nạp vào thời gian) -
Căn cứ vào bệnh tật ở tạng phủ nào trong
Nội tạng, bệnh có liên quan đến cơ quan bên ngoài nào, liên hệ đến chức
năng nào thì chọn Tự quyết tương ứng theo nguyên tắc Lục tự qui nạp vào
cơ thể con người như đã trình bày ở phần ” Các nguyên tắc cơ bản của
Lục tự khí công” để đưa ra liệu trình luyện tập hợp lý (sẽ trình bày cụ
thể ở phần Ứng dụng Lục tự quyết trị bệnh nan y)
- Liệu trình luyện tập tiết tự để trị bệnh có 3 giai đoạn còn gọi là 3 vòng:
* Vòng 1 : gọi là vòng khai mở, vòng này
bắt đầu từ Tự quyết đầu tiên cho đến tự quyết cuối cùng, lần lượt mỗi
tự quyết chỉ thực hành có 6 lần tiết tự, tổng cộng tất cả có 6 lần 6 là
36 hơi thở .Vòng 1 người xưa gọi là vòng “Tiểu chu Thiên Địa” Sách Lục
tự bệnh lý kỳ thư gọi là vòng “Thiên cang”, sách Lục tự kỳ môn dị pháp
gọi là “Chu khởi”. Thanh-long y án khảo luận gọi là “Tam thập lục bảo
khí” còn gọi là vòng “Bảo khí” .Tuy khác tên gọi nhưng cùng chung một ý
nghĩa, mục đích và liệu pháp. Sau khi vừa kết thúc vòng 1 thì tiếp tục
ngay vòng 2 không để gián đoạn.
* Vòng2 : gọi là vòng hành hóa, gọi là
vòng chứ thực ra giai đoạn này chỉ thực hành tiết tự một Tự quyết liên
quan đến cơ quan bị bệnh mà thôi.Và tự quyết này được thực hiện với 18
lần hơi thở liên tục, vòng 2 còn có tên gọi là “Trung chu Thiên địa”.
Sách Lục tự bệnh lý kỳ thư gọi là vòng “Nhân hoá”. Thanh-long y án khảo
luận gọi là “Thập bát La hán phục nguyên” còn gọi là vòng “Phục nguyên”.
Sách Lục tự kỳ môn dị pháp gọi là “Hoạt chu”. Thực hiện xong vòng 2
tiếp tục thực hiện vòng 3.
* Vòng 3 : gọi là vòng hòa tiết, vòng
này mỗi Tự quyết trong vòng Lục tự tương sinh được thực hiện 12 lần tiết
tự. Tổng cộng là 12 lần 6 bằng 72 hơi thở. Vòng 3 người xưa gọi là vòng
“Đại chu Thiên địa”. Sách Lục tự bệnh lý kỳ thư gọi là vòng “Địa tàng”.
Sách Lục tự kỳ môn dị pháp gọi là “Hòa chu”. Thanh-longY án khảo luận
gọi là “Thất thập nhị hòa công” còn gọi là vòng “Hòa công” Tổng cộng
toàn bộ một liệu trình luyện tập trị bệnh là tiết nhiếp 126 Hơi thở
(36+18+72=126, lưu ý luôn luôn nhớ kỹ phép số này).
Một vài ví dụ minh họa phương pháp luyện tập trị bệnh:
- Bệnh về tai : như ù tai (Tinitus),
viêm tai giữa(Mitteohrenzündung), lãng tai v..v..So sánh với bảng Lục tự
qui nạp vào cơ thể thì Tai ứng với Chữ SUY trong lục tự quyết, vì vậy
chọn chữ SUY làm tâm điểm cho quá trình tập luyện. Khi đã biết chữ SUY
là Tự quyết trung tâm thì nên chọn vòng Lục tự tương sinh Vọng Nguyệt
Tàng Nguyên để luyện là tốt nhất, vòng lục tự tương sinh này thời gian
thích ứng cho thực hành là vào buổi tối như đã trình bày ở trên.
Quá trình thực hành tiết tự như sau:
Buổi tối, sau khi tắm gội sạch sẽ, áo quần rộng rãi thoải mái, tìm nơi
yên tĩnh, chọn tư thế ngồi thích hợp thả lỏng toàn thân, hai mắt nhắm
hờ, cổ ngay, lưng thẳng. Hít vào từ từ bằng mũi, đồng thời bụng hơi
phình ra, đặt sự chú ý lên đỉnh đầu để tạo cảm giác như có một luồng
thanh khí đi vào từ đây chứ không phải đi vào bằng mũi, hơi vào vừa đủ,
miệng chuẩn bị tư thế để phát âm chữ SUY, đồng thời ép bụng để tiết hơi
ra miệng, tư tưởng và sự chú ý hoàn toàn tập trung vào chữ SUY, hơi thở
được đẩy ra từ từ qua cấu trúc chữ SUY của vòm miệng ra ngoài, tư tưởng
suy nghĩ đang phát ra chữ SUY nhưng chỉ tồn tại trong Tiềm thức, chứ âm
hưởng không thực sự có thật. (Âm tự tồn tại và được phát ra trong tâm
thức chính là ở dạng tàng ẩn bên trong, cho nên mang tải sức chấn động
của Nội khí rất lớn).
Tiếp tục hơi thở vào như trước, rồi lần
lượt tiết tự chữ SUY theo nhịp thở như thường lệ, sau khi tiết tự chữ
SUY đủ 6 lần thì tiếp nối hơi thở để tiết tự chữ HU. Thứ tự lần lượt chữ
SUY 6 lần, HU 6 lần, chữ HƯ 6 lần, chữ HA 6 lần, chữ HÔ 6 lần, chữ HI 6
lần . Đến đây là kết thúc vòng 1 tức là vòng khởi động, không được dừng
lại làm gián đoạn nhịp thở mà phải liên tục tiếp nối nhịp thở tiết tự
của vòng 2.
Lại hít vào bằng mũi, tư tưởng tập trung
lên đỉnh đầu…..Thở ra, kèm theo việc tiết tự chữ SUY, vì chữ SUY là chữ
trung tâm đã chọn cho liệu pháp trị bệnh về Tai. Chữ SUY được thực hành
tiết tự 18 lần liên tục, đến đây là kết thúc vòng 2 tức là vòng hoạt
hóa, cũng có nghĩa là vòng chủ chốt để trị bệnh.
Tiếp tục nhịp thở tiết tự của vòng 3,
lại bắt đầu từ chữ SUY, nhưng mỗi tự quyết thực hiện đến 12 lần theo thứ
tự sau: chữ SUY 12 lần, chữ HU 12 lần, chữ HƯ 12 lần, chữ HA 12 lần,
chữ HÔ 12 lần, HI 12 lần. Đến đây là kết thúc một buổi thực hành tiết
tự.
Vì điều kiện thời gian bó buộc không thể
luyện tập vào buổi tối để thực hành vòng lục tự tương sinh Vọng nguyệt
tàng nguyên ( là vòng Tự quyết để trị bệnh về Tai thích hợp nhất), thì
chọn thời gian khác, với vòng Lục tự khác vẫn đạt được hiệu quả tốt. Nếu
thời gian luyện tập vào buổi sáng thì như đã trình bày ở trên, chọn
vòng lục tự Nhật khởi-Đông khai và trình tự luyện tập như sau: Chữ HƯ 6
lần, chữ HA 6 lần, chữ HÔ 6 lần, chữ HI 6 lần, chữ SUY 6 lần, chữ HU 6
lần, chữ SUY 18 lần, chữ HƯ 12 lần, chữ HA 12 lần, chữ HÔ 12 lần, chữ HI
12 lần, chữ SUY 12 lần, chữ HU 12 lần.
Nếu thời gian luyện tập vào xế trưa thì
chọn vòng Ngũ trung đại hóa, trình tự luyện tập như sau: Chữ HÔ 6 lần,
chữ HI 6 lần, chữ SUY 6 lần, chữ HU 6 lần, chữ HƯ 6 lần, chữ HA 6 lần,
chữ SUY 18 lần, chữ HÔ 12 lần, chữ HI à 12 lần, chữ SUY 12 lần, chữ HU
12 lần, chữ HƯ 12 lần, chữ HA 12 lần.
Sưu Tầm Và Biên Soạn
Quảng Nhẫn Lê Thuận Nghĩa
Quảng Nhẫn Lê Thuận Nghĩa
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)